VINAGRI News - Cà phê, cây trồng sinh kế cho 600.000 hộ dân, với khoảng 2 triệu lao động, năm 2025 xuất khẩu đạt 8,4 tỷ USD. Để phát triển bền vững cần những giải pháp đồng bộ.
Năng suất cao gấp 3 lần thế giới
Cà phê là cây trồng chủ lực của vùng Tây Nguyên, Tây Bắc và được xếp vào danh mục cây trồng chính, với diện tích khoảng 730.000 ha, sản lượng hàng năm khoảng 1,8 triệu tấn. Cà phê Việt Nam phát triển mạnh từ năm 1980 trở lại đây nhờ chủ yếu được trồng trên đất bazan và độ cao so với mực nước biển rất phù hợp. Ngoài ra, điều kiện khí hậu, thời tiết; đặc biệt là lượng mưa, nhiệt độ ở những vùng trồng cũng thích hợp cho cây cà phê phát triển.
Năng suất bình quân cà phê Việt Nam đạt khoảng 3 tấn nhân/ha, cao hơn 3 lần trung bình thế giới. Ảnh: PC.
Theo TS Phan Việt Hà, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), mùa khô kéo dài ở vùng trồng cà phê là thách thức về nước tưới, tuy nhiên, đây cũng là điều kiện giúp cây cà phê phân hóa mầm hoa tốt và đồng đều, yếu tố để đạt năng suất cao. Ở nhiều vùng, ví như cao nguyên Buôn Ma Thuột có biên độ nhiệt ngày đêm cao, giúp cây cà phê tích lũy chất thơm tốt hơn, là tiền đề để phát triển cà phê chất lượng cao.
Cũng theo TS Phan Việt Hà, ngành cà phê có được thành tựu như ngày nay là được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước nên có cơ hội phát triển. Từ thập niên 80 (thế kỷ 20), cây cà phê phát triển mạnh theo các nông lâm trường quốc doanh và công cuộc xây dựng các vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên. Đây là giai đoạn nền tảng để cây cà phê phát triển như hiện nay. Song song đó, Nhà nước luôn có các chính sách hỗ trợ phát triển trong quy hoạch, nghiên cứu khoa học công nghệ, khuyến nông và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, phát triển bền vững cho ngành hàng cà phê. Gần đây, chương trình tái canh cà phê có ý nghĩa rất lớn để ngành hàng có những bước thay đổi ngoạn mục về năng suất và chất lượng.
Ngành cà phê Việt Nam là sinh kế chính cho hơn 600.000 hộ nông dân với khoảng 2 triệu lao động. Ảnh: PC.
“Hiện nay, năng suất bình quân cà phê Việt Nam đạt khoảng 3 tấn nhân/ha, cao hơn 3 lần trung bình thế giới, gần gấp đôi Brazil, nước sản xuất cà phê số 1 thế giới. Sản phẩm cà phê Việt Nam đang có mặt trên thị trường của 85 quốc gia”, TS Phan Việt Hà cho hay.
Bên cạnh đó, nông dân nắm bắt tốt kỹ thuật canh tác cà phê; mạng lưới khuyến nông phủ kín cộng với bản tính cần cù, chịu khó và ham học hỏi của nông dân Việt Nam đã khiến các kỹ thuật canh tác cà phê đi vào “máu thịt” của nông dân, nhờ đó cây cà phê cho năng suất cao và chất lượng tốt.
“Ngoài ra, sự có mặt của Viện WASI với các nghiên cứu toàn diện về cây cà phê cũng đã hỗ trợ rất nhiều trong sản xuất”, TS Hà nói và cho biết, do biến đổi khí hậu, diện tích phù hợp trồng cà phê Arabica (cà phê chè) trên thế giới dần bị thu hẹp; trong khi đó, cà phê Robusta (cà phê vối) chất lượng cao là thế mạnh của Việt Nam, loại cà phê này rất cần cho chế biến cà phê hòa tan, cà phê trộn (blend). Lúc đó cà phê Robusta chất lượng cao, với đặc tính thích nghi rộng sẽ phổ biến.
Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Brazil. Ảnh: PC.
Thành tựu ngành hàng cà phê Việt Nam trong những năm qua cực kỳ ấn tượng qua các con số: Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Brazil và là nước đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê Robusta.
Cà phê luôn là sản phẩm mang lại kim ngạch xuất khẩu giá trị cao trong các loại nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Niên vụ 2024 - 2025, Việt Nam đã đạt kỷ lục xuất khẩu với kim ngạch 8,4 tỷ USD, tăng 55,5% về giá trị so với niên vụ trước với sản lượng xuất khẩu khoảng 1,5 triệu tấn. Ngoài ra, ngành cà phê Việt Nam là sinh kế chính cho hơn 600.000 hộ nông dân với khoảng 2 triệu lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở vùng Tây Nguyên, Tây Bắc và một số vùng trồng cà phê khác.
Thành tựu về giống
Để ngành hàng cà phê Việt Nam có năng suất đứng đầu thế giới và xuất khẩu thứ 2 thế giới phải nhắc tới những thành tựu về giống mới đưa vào sản xuất. Theo TS Phan Việt Hà, thành tựu về nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chọn tạo giống cà phê của WASI đã được chuyển giao đến nông dân trong gần 20 năm qua đã góp phần thúc đẩy cây trồng này phát triển. WASI đã có 20 giống cà phê được công nhận phục vụ cho sản xuất, gồm: 14 giống cà phê vối (Robusta) và 6 giống cà phê chè (Arabica).
Trong các giống cà phê vối sản xuất có giống cà phê vối thực sinh TRS1 được nông dân ưa chuộng và trồng nhiều nhất (chiếm khoảng 85%); tiếp đến là giống cà phê vối ghép TR4, TR9, TR11, cà phê dây, cà phê xanh lùn (chiếm khoảng 15%). Trong các giống cà phê chè thì giống cà phê chè Catimor đang được trồng phổ biến trong sản xuất; các giống cà phê chè mới lai tạo như TN1, TN2, THA1 mặc dù đạt năng suất, chất lượng cao nhưng diện tích trồng còn ít.
Giống cà phê vối thực sinh TRS1 là giống phổ biến phục vụ tái canh hiện nay. Ảnh: Phương Chi.
TS Hà cho biết thêm: Giống cà phê thực sinh TRS1 và các giống cà phê ghép TR4, TR9, TR11 đạt năng suất thực tế vào giai đoạn kinh doanh ổn định từ 4-5 tấn nhân/ha, cá biệt một số hộ do điều kiện chăm sóc tốt đạt 7 - 8 tấn nhân/ha. Ngoài ra, các tiến bộ kỹ thuật về canh tác, bảo vệ thực vật, thu hoạch và chế biến cũng đã được WASI nghiên cứu, hoàn thiện và chuyển giao cho nông dân đưa vào sản xuất, đảm bảo việc áp dụng đầy đủ các gói kỹ thuật theo các định hướng phát triển khác nhau, tiến tới phát triển bền vững.
Hiện tỷ trọng cà phê chế biến sâu ở Việt Nam (cà phê rang xay, cà phê hòa tan) ngày càng tăng. Nhiều nhà máy chế biến quy mô lớn, hiện đại đã được đầu tư, giúp nâng cao giá trị gia tăng cho hạt cà phê, thay vì chỉ xuất khẩu thô. Ngoài ra, các chương trình phát triển cà phê chất lượng cao, cà phê đặc sản cũng đang được phát triển rất mạnh, càng góp phần nâng cao danh tiếng và vị thế của cà phê Việt Nam.
5 giải pháp để ngành cà phê đột phá
Tuy nhiên, biến đổi khí hậu đang là thách thức lớn đối với cây cà phê Việt Nam. Tình trạng hạn hán, thiếu nước tưới vào mùa khô ngày càng gay gắt; bên cạnh đó, mưa trái mùa cũng ảnh hưởng đến quá trình ra hoa, đậu quả, thu hoạch và bảo quản sản phẩm của sản xuất cà phê. Bên cạnh đó, diện tích cà phê già cỗi còn khá lớn; quy mô sản xuất nhỏ lẻ; tiêu chuẩn thị trường ngày càng khắt khe; sản phẩm vẫn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu thô là những những vấn đề ngành hàng cà phê đang phải đối mặt.
Để ngành hàng cà phê phát triển bền vững, đột phá trong thời gian tới, theo TS Phan Việt Hà, Việt Nam cần đẩy nhanh tiến độ tái canh vườn cà phê già cỗi, bắt buộc sử dụng các giống mới có năng suất, chất lượng cao và khả năng thích ứng và chống chịu với các điều kiện bất thuận. Quan trọng nhất là việc chuyển đổi dần từ thâm canh sang canh tác bền vững như: Trồng xen canh với sầu riêng, hồ tiêu, cây ăn quả... áp dụng tưới tiết kiệm nước, tưới nhỏ giọt, phun mưa cục bộ và quản lý dịch hại tổng hợp (IPM). “Đặc biệt là áp dụng các công nghệ mới của nông nghiệp chính xác, nông nghiệp thông minh nhằm giảm chi phí sản xuất, giảm ảnh hưởng đến tài nguyên đất, nước và giảm phát thải”, TS Hà chia sẻ.
Các chương trình phát triển cà phê chất lượng cao, cà phê đặc sản ngày càng góp phần nâng cao danh tiếng và vị thế của cà phê Việt Nam. Ảnh: Phương Chi.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng trồng, mã số vùng trồng, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nông dân để thu thập, số hóa thông tin lô hàng và định vị vườn; đây là giải pháp “sống còn” để đáp ứng quy định EUDR. Việc thiết lập dữ liệu truy xuất nguồn gốc cũng là giải pháp để tiếp cận các thị trường cho những sản phẩm chất lượng mang lại giá trị cao.
Đồng thời đẩy mạnh chế biến sâu, đây là chìa khóa để nâng cao giá trị gia tăng của cà phê Việt Nam. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư vào các nhà máy chế biến cà phê hòa tan, rang xay, và các sản phẩm chiết xuất giá trị cao khác.
Tập trung xây dựng thương hiệu quốc gia cho cà phê Việt Nam gắn liền với chất lượng, tính bền vững và câu chuyện văn hóa. Bên cạnh thị trường truyền thống, cần tích cực khai thác các thị trường ngách như là phân khúc cà phê đặc sản, cà phê hữu cơ....
TS Phan Việt Hà: “Trong thời gian tới, cần phải xóa tình trạng sản xuất manh mún bằng cách thúc đẩy các mô hình liên kết hợp tác xã, liên kết nhóm hợp tác xã; tạo mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp nhằm có thể áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đồng bộ, sản xuất sản phẩm chất lượng cao và ổn định, đáp ứng các yêu cầu đa dạng của thị trường”.
Phương Chi/ Báo Nông nghiệp & Môi trường
Link bài viết gốc: https://nongnghiepmoitruong.vn/nganh-hang-ca-phe-but-pha-d780888.html





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét