Câu chuyện nông dân trồng lúa than lỗ hoặc lợi nhuận rất thấp - TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Chuyên tin tức nông nghiệp - Chỉ tin tức nông nghiệp

Breaking

Home Top Ad

CHỈ TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2025

Câu chuyện nông dân trồng lúa than lỗ hoặc lợi nhuận rất thấp

VINAGRI News - Nông dân trồng lúa nhiều nơi tại Việt Nam đang than lỗ hoặc lợi nhuận rất thấp, thực tế câu chuyện lãi/ lỗ của người nông dân trồng lúa như thế nào?


Ảnh minh họa

Trước tiên, xét trong chuỗi sản xuất - phân phối lúa gạo thì người nông dân nắm giữ vai trò ở khâu sản xuất lúa - là một mắc xích quan trọng nhất nhưng lại có mức lợi nhuận thấp nhất rủi ro cao nhất trong tất cả các thành phần tham gia vào chuỗi sản xuất cung ứng này.


Nguyên nhân lỗ hoặc lợi nhuận rất thấp


Câu chuyện lỗ hoặc lợi nhuận rất thấp của người nông dân trồng lúa có thể do một trong các nguyên nhân sau:


Thứ nhất là do giá bán lúa thấp, không bù vào được chi phí.


Giá lúa tươi nhiều thời điểm chỉ khoảng 6.000 - 6.300 đồng/kg, trong khi chi phí sản xuất (giống, phân bón, thuốc, thuê nhân công, thuê máy) có thể tương đương hoặc cao hơn.


Khi giá xuất khẩu gạo giảm (ví dụ giữa năm 2025 do nguồn cung toàn cầu dồi dào), thương lái ép giá lúa trong nước khiến nông dân càng khó có lợi nhuận.


Thứ hai là do chi phí đầu vào tăng mạnh.


Giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nhiên liệu tăng giá, đặc biệt từ sau dịch COVID và xung đột chính trị trên thế giới khiến cho giá dầu, chi phí logistics tăng lên.


Nông dân sản xuất nhỏ lẻ thường phải mua vật tư với giá cao, không có khả năng thương lượng với các nhà cung cấp như những doanh nghiệp lớn. Bên cạnh đó, người nông dân thiếu vốn sản xuất dẫn đến việc phải mua vật tư - trả sau và gánh chịu thêm khoản lãi suất (vay) không nhỏ.


Thứ ba là do sản xuất manh mún, phụ thuộc vào thương lái


Đa số hộ nông dân trồng lúa với diện tích nhỏ (0,5 - 1 ha), không có quy mô lớn để giảm chi phí.


Phụ thuộc thương lái thu mua, ít hợp đồng bao tiêu ổn định nên khi giá xuống theo tình hình thị trường, họ là người chịu thiệt trực tiếp.


Thứ tư là do chính sách thu mua & dự trữ lúa gạo chưa được hiệu quả


Dù có chương trình tạm trữ lúa gạo, nhưng thực tế nông dân ít được hưởng lợi từ chương trình này mà chủ yếu doanh nghiệp lớn mới được vay vốn để thu mua.


Nông dân bán lúa tươi ngay sau thu hoạch, lúc này nguồn cung thị trường đang dồi dào và cũng là lúc giá lúa đang thấp nhất.


Thứ năm là do biến động thị trường quốc tế


Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, nhưng biến động giá quốc tế (Ấn Độ gỡ bỏ lệnh hạn chế, nguồn cung Thái Lan dồi dào, Philippines tạm ngưng nhập khẩu gạo...) khiến giá gạo toàn cầu giảm, kéo giá nội địa đi xuống.


Trong khi đó, khi giá gạo thế giới tăng, lợi ích nhiều khi tập trung ở khâu xuất khẩu/kinh doanh, chưa đến tay nông dân được.


Thứ sáu là do năng suất lúa cao nhưng chất lượng và giá trị thấp


Giống lúa phổ biến được trồng và xuất khẩu ở Việt Nam là lúa chất lượng trung bình, chủ yếu bán thô, chưa được chế biến hoặc xây dựng thương hiệu mạnh (ví dụ như gạo Basmati của Ấn Độ).


Gạo cao cấp (ST25, gạo hữu cơ, gạo thơm) bán giá tốt nhưng diện tích trồng còn ít, quy trình đòi hỏi khắt khe, khó nhân rộng cho nông dân nhỏ lẻ.


Bảng so sánh giá gạo xuất khẩu của gạo Basmati Ấn Độ, gạo trắng Thái Lan 5% và gạo trắng Việt Nam 5% qua các năm từ 2015 - 2025


Để cụ thể hóa việc tính (ước lượng) lãi/ lỗ của người nông dân trồng lúa, chúng ta có thể tham khảo một ví dụ sản xuất lúa tại khu vực ĐBSCL như sau:


1. Chi phí sản xuất lúa bình quân/ha/vụ:



2. Năng suất và giá bán:


Năng suất trung bình: 6 - 7 tấn/ha/vụ (vùng thâm canh có thể 7,5 tấn).


Giá bán lúa tươi (thời điểm giá thấp 2025): 6.000 - 6.300 đồng/kg.


Doanh thu:


 • 6 tấn × 6.200 đồng/kg = 37,2 triệu đồng/ha


 • 7 tấn × 6.200 đồng/kg = 43,4 triệu đồng/ha


3. Lợi nhuận (hoặc lỗ):


- Trường hợp năng suất trung bình (6,5 tấn/ha):


 • Doanh thu = 40,3 triệu đồng/ha


 • Chi phí = 30 triệu đồng/ha


Như vậy người nông dân sẽ có lãi ròng khoảng 10 triệu đồng/ha/vụ (tức khoảng 3,3 triệu đồng/ha/tháng nếu tính vụ 3 tháng).


- Nhưng khi chi phí lên cao (35 triệu đồng) + năng suất thấp (6 tấn) + giá thấp (6.000 đồng/kg) thì:


 • Doanh thu 36 triệu đồng trừ đi chi phí cũng khoảng 35 triệu đồng.


Như vậy, lúc này người nông dân lãi gần như bằng 0, thậm chí âm nếu phát sinh thêm chi phí khác.


- Với các hộ sản xuất nhỏ lẻ (diện tích chỉ khoảng 5 công đất lúa hay 0,5 ha): lãi chỉ vài triệu đồng/vụ lúa, không đủ chi phí sinh hoạt.


4. Vì sao “trồng lúa vẫn lỗ”


- Biên lợi nhuận rất mỏng: chỉ cần giá lúa giảm 200 - 300 đồng/kg hoặc phân bón tăng 10 - 15% là nông dân lỗ ngay.


- Không có hợp đồng bao tiêu: Thường người nông dân gặt lúa và bán lúc thu hoạch rộ, lúc này cung thị trường nhiều nên thường xảy ra tình trạng giá rớt mạnh, không đủ bù chi phí hoặc cũng xảy ra tình trạng thương lái ép giá.


- Năng suất lúa cao nhưng giá trị thấp: chủ yếu gạo thường, bán buôn, không có giá trị gia tăng.


Làm sao để nông dân sản xuất lúa được "hòa vốn"?


Giả định chi phí sản xuất lúa/ ha/ vụ ở 3 mức là Thấp - Trung bình - Cao tương đương với chi phí là 27 triệu đồng - 31 triệu đồng - 35 triệu đồng.


Năng suất lúa đạt được ở 4 mức là Thấp - Trung bình - Cao - Rất cao tương ứng với các mức 5 tấn (5.000kg) - 6 tấn (6.000kg) - 7 tấn (7.000kg) - 8 tấn (8.000kg).


Vậy người nông dân hòa vốn khi: Giá hòa vốn (VNĐ/kg) = Chi phí (VNĐ) : Năng suất (kg), ta có bảng kết quả sau:


1. Giá hòa vốn theo năng suất và chi phí (áp dụng với trường hợp kiểm soát được năng suất & chi phí)




Như vậy, ví dụ nếu chi phí là 31 triệu đồng và năng suất đạt được là 6 tấn/ha thì giá bán lúa để hòa vốn ở đây là 5.167 VNĐ/kg


2. Khi có một mức giá bán lúa phổ biến, cần đạt được năng suất như thế nào để hòa vốn?


Công thức: Năng suất hòa vốn (kg/ha) = Chi phí (VNĐ) : Giá bán (VNĐ/kg). Kết quả chuyển sang tấn và làm tròn số.



Như vậy, ví dụ với giá lúa bán được 6.000 đồng/kg và chi phí người nông dân bỏ ra cho 1 ha lúa là 31 triệu đồng thì năng suất lúa phải đạt được để hòa vốn31.000.000 : 6.000 = 5,17 tấn/ha.


Qua đó, chúng ta có thể thấy:


- Với giá lúa phổ biến 6.000 - 6.300 đồng/kg (như ví dụ trên), hầu hết người nông dân phải đạt được năng suất từ 5 - 5,5 tấn/ha nếu chi phí bỏ ra ở mức 31 triệu đồng để hoà vốn; nếu chi phí cao (từ 35 triệu đồng trở lên) thì năng suất lúa cần phải đạt từ 5,5 - 5,8 tấn/ha - chúng ta mới có thể hòa vốn được.


- Nhiều hộ nông dân ở ĐBSCL có năng suất lúa từ 6 - 7 tấn/ha, nhưng chi phí biến động hoặc giá thu mua giảm vài trăm đồng/kg có thể biến lãi thành lỗ rất nhanh vì biên lợi nhuận mỏng.


- Với năng suất thấp (từ 5 tấn/ha trở xuống) và chi phí cao, bán ở giá hiện tại gần như chắc chắn người nông dân sẽ lỗ.


Vậy đâu là giải pháp để thoát lỗ và có lời?


 1. Giảm bớt chi phí sản xuất (phân/thuốc): áp dụng kỹ thuật bón cân đối (bón theo nhu cầu thực tế, bón lá), mua tập trung theo nhóm (số lượng lớn) để được giá tốt.

Bên cạnh đó, cần có sự can thiệp, xây dựng các chính sách hỗ trợ từ nhà nước để người nông dân có thể mua được giống, phân, thuốc... với giá thành tốt nhất.

Ngoài ra, chi phí sản xuất đối với các cánh đồng diện tích lớn sẽ tốt hơn chi phí sản xuất nhỏ lẻ (diện tích dưới 1 ha đất).


 2. Tăng năng suất hiệu quả: chọn giống năng suất tốt, quản lý nước, canh tác hợp lý để nâng năng suất từ 5 - 6 tấn/ha là cải thiện lớn về lợi nhuận. Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa việc sản xuất, thu hoạch lúa để có được năng suất tốt nhất.


 3. Hợp tác, hợp đồng bao tiêu: tham gia hợp tác xã hoặc liên kết với các doanh nghiệp (uy tín) để có hợp đồng bán, ổn định giá và giảm chi phí trung gian. Với hình thức này, người nông dân sẽ hạn chế được những rủi ro "mất giá".


 4. Chuyển diện tích trồng lúa thường sang trồng các giống lúa có giá trị cao: lúa chất lượng cao, gạo đặc sản, gạo hữu cơ nếu có thị trường.


 5. Quản lý rủi ro: cân nhắc hợp đồng tương lai/hedging (áp dụng nếu có tham gia hợp tác xã hoặc liên kết với doanh nghiệp), hoặc bán chia nhiều đợt thay vì bán toàn bộ lúc thu hoạch rộ.


Hợp đồng tương lai phức tạp, thường dành cho doanh nghiệp xuất khẩu lớn hoặc nhà đầu tư vì:


- Cần ký quỹ tiền trước (margin).


- Cần hiểu rõ cơ chế giao dịch, luật, rủi ro tài chính.


Nông dân nhỏ lẻ thường không tiếp cận trực tiếp mà nếu có tham gia thì phải thông qua hợp tác xã, doanh nghiệp chế biến, các công ty xuất khẩu. Và lúc này cần phải có sự tham gia điều tiết của các cơ quan quản lý, ban ngành.


NPK/ Vinagri News


Nội dung bài viết chỉ mang tính chất chia sẻ quan điểm của riêng tác giả để mọi người cùng tham khảo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét