VINAGRI News - Cùng với tác động của biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng tới sản xuất, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang đối mặt với thách thức nghiêm trọng từ lúa cỏ, đối tượng cạnh tranh trực tiếp về dinh dưỡng, ánh sáng, không gian sống, đe dọa năng suất, chất lượng và mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái.
Lúa cỏ, mối đe dọa đối với đồng ruộng
Tác động của biến đổi khí hậu đang diễn ra gay gắt tại vùng ĐBSCL, tình trạng hạn, xâm nhập mặn, mưa bão bất thường, sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển đang đặt ra bài toán nan giải cho vựa lúa miền Tây. Ngoài những tác động từ thiên nhiên, hiện nay trong canh tác lúa ở vùng ĐBSCL đang đối mặt với cỏ dại, đây là đối tượng gây hại đang gây hại nghiêm trọng cho sản xuất lúa gạo.
TS. Hồ Lệ Phi, Trường Nông nghiệp, Đại học Cần Thơ cho biết, lúa cỏ đã gây hại cho các quốc gia trồng lúa lớn ở châu Á như Việt Nam, Thái Lan. Tại nhiều nước, thiệt hại do lúa cỏ có thể làm giảm năng suất từ 25 - 75%, thậm chí lên đến 100% nếu không được kiểm soát tốt. Ở Việt Nam, lúa cỏ xuất hiện rải rác tại hầu hết các vùng trồng lúa lớn, tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Kết quả khảo sát cho thấy mức độ nhiễm dao động từ 11% - 45%, trong đó các tỉnh như An Giang, Đồng Tháp có tỷ lệ cao nhất. Tuy nhiên, hiện chưa có thống kê đầy đủ về thiệt hại năng suất do lúa cỏ gây ra.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất lúa trọng điểm của quốc gia
Theo đánh giá, lúa cỏ phát tán mạnh có nhiều nguyên nhân. Trong đó, sử dụng hạt giống tự để lại, không qua kiểm định chất lượng. Sản xuất lúa liên tục, ít luân canh, dẫn đến tích lũy hạt lúa cỏ trong đất. Sử dụng thuốc diệt cỏ không đúng cách, khiến lúa cỏ dần kháng thuốc. Cơ giới hóa chưa đồng bộ, khiến hạt lúa cỏ dễ rơi rụng, phát tán sang ruộng khác.
Theo TS. Hồ Lệ Phi, một hạt lúa cỏ có thể tồn tại trong đất từ 2 đến 12 năm, và chỉ cần một hạt sót lại sau mỗi vụ cũng có thể nhân lên hàng trăm nghìn hạt sau vài mùa vụ. Hiện nay, Việt Nam hiện mới dừng ở mức điều tra, xác định đặc điểm sinh học của lúa cỏ, chưa có chương trình nghiên cứu chuyên sâu hay chiến lược quốc gia về quản lý. Trong khi đó, các nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc đã áp dụng biện pháp quản lý tổng hợp (IPM) gồm: Sử dụng giống lúa được chứng nhận sạch lúa cỏ; luân canh cây trồng; vệ sinh đồng ruộng sau thu hoạch; kiểm soát nguồn nước và kênh mương và xử lý hạt giống bằng phương pháp sinh học hoặc vật lý.
Lúa cỏ xuất hiện và lan rộng ở ĐBSCL từ năm 1990 khi cơ giới hóa nông nghiệp phát triển mạnh. Lúa cỏ đang trở thành một trong những đối tượng dịch hại nguy hiểm và khó kiểm soát trên đồng ruộng hiện nay, gây thiệt hại lớn về năng suất và chất lượng lúa gạo.
TS. Nguyễn Thế Cường, Viện lúa ĐBSCL cho biết, lúa cỏ cạnh tranh trực tiếp với lúa trồng về ánh sáng, dinh dưỡng, không gian, làm giảm năng suất từ 30–80%, thậm chí có ruộng mất trắng. Ngoài ra, lúa cỏ còn là ký chủ của sâu bệnh, làm tăng chi phí sản xuất và gây khó khăn trong chế biến, xuất khẩu do hạt lẫn, màu đỏ và kích thước không đồng đều.
Sự lan rộng của lúa cỏ là thách thức lớn đối với mục tiêu phát triển bền vững ngành lúa gạo. Việc nhận diện, quản lý và kiểm soát lúa cỏ cần được xem là nhiệm vụ trọng tâm, gắn với chiến lược bảo vệ năng suất và thương hiệu gạo Việt Nam. Vì vậy, người dân cần sử dụng giống sạch, có nguồn gốc rõ ràng, kiểm định chặt chẽ chất lượng; luân canh cây trồng, xử lý nước, làm đất kỹ, sử dụng thuốc trừ cỏ chọn lọc đúng thời điểm. Nghiên cứu chọn tạo giống lúa kháng lúa cỏ và quy trình canh tác thích ứng cho từng vùng sinh thái.
TS. Nguyễn Thế Cường nhấn mạnh: "Trước đây chúng tôi nghiên cứu đầu tiên về lúa cỏ khoảng năm 1994 - 1995, thời điểm đó bà con thường để giống, thứ hai là gặt bằng tay, gieo sạ bằng tay, mức độ lây lan chưa nhiều. Nhưng mà sau này khi mà chúng ta có mạng lưới sản xuất giống, rồi máy gặt đập liên hợp bắt đầu xuất hiện những năm 2000 tới bây giờ thì lúa cỏ lây lan rất là nhiều".
Tìm giải pháp quản lý lúa cỏ trên đồng ruộng
PGS.TS. Trần Vũ Phến, Trường Nông Nghiệp, Đại học Cần Thơ cho biết, biến đổi khí hậu không chỉ ảnh hưởng đến cây lúa mà còn thúc đẩy sự phát triển, thích nghi nhanh của lúa cỏ và các loại cỏ dại khác. Một số quần thể lúa cỏ đã kháng thuốc diệt cỏ, khiến biện pháp hóa học ngày càng kém hiệu quả.
Sự lan rộng của lúa cỏ là thách thức lớn đối với mục tiêu phát triển bền vững ngành lúa gạo
Giải pháp quản lý cỏ dại theo hướng tổng hợp, thân thiện với môi trường được PGS. TS. Trần Vũ Phến nhấn mạnh, cần luân canh cây trồng, kết hợp mô hình lúa - tôm, lúa - cá để phá vỡ vòng đời của lúa cỏ. Cùng với đó, lựa chọn giống lúa khỏe, sinh trưởng nhanh, có khả năng cạnh tranh với cỏ dại, phù hợp với điều kiện hạn, mặn.
Ngoài ra, đa dạng hóa biện pháp sinh học, nghiên cứu các giống lúa có khả năng đối kháng với cỏ dại cũng được xem là hướng đi bền vững lâu dài. PGS. TS. Trần Vũ Phến cũng cho rằng, cần ban hành hướng dẫn kỹ thuật về quản lý cỏ dại tổng hợp (IVM) thích ứng biến đổi khí hậu, đồng thời hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao giống lúa có khả năng cạnh tranh cao với lúa cỏ.
Chủ động kiểm soát lúa cỏ và dịch hại
Tỉnh An Giang (mới) là địa phương có tổng diện tích sản xuất lúa lớn nhất ĐBSCL và cả nước. Vì vậy, mỗi vụ, diện tích bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh khác nhau, nhưng đáng chú ý cỏ dại là một trong những tác nhân làm giảm năng suất và chất lượng lúa.
Theo ghi nhận của các cơ quan chức năng, tại khu vực Kiên Giang (cũ), một số ruộng lúa có tỷ lệ nhiễm lúa cỏ từ 5 - 10%, thậm chí có nơi trên 20%. Còn tại An Giang (cũ), có ruộng lúa bị thiệt hại nặng, nông dân buộc phải bỏ hoang. Riêng huyện Hòn Đất của Kiên Giang (cũ), vụ Đông Xuân 2022 - 2023 ngành chức năng ghi nhận hơn 19.000 ha bị nhiễm bệnh, trong đó khoảng 4.400 ha phải gieo sạ lại. Đến vụ sau, hiện tượng lúa bị bệnh và nhiễm lúa cỏ vẫn tiếp tục, cho thấy tình trạng này có xu hướng kéo dài.
Ông Lưu Minh Tuấn, Chi cục trồng trọt và Bảo vệ thực vật An Giang cho biết, nguyên nhân được ngành chuyên môn xác định là quản lý đồng ruộng và xử lý sau thu hoạch chưa đúng kỹ thuật. Một số chế phẩm vi sinh, thuốc xử lý được quảng cáo rầm rộ nhưng chưa có kết quả kiểm chứng thực tế. Giải pháp để xử lý lúa cỏ là khử lẫn, làm sạch đồng ruộng sau thu hoạch, theo dõi, điều chỉnh nước hợp lý, tránh để khô hạn kéo dài gây phát sinh cỏ dại và bệnh hại.
Trước những tác hại của lúa cỏ, cần sớm xây dựng chương trình quản lý và kiểm soát một cách hiệu quả, trong đó kiểm định nguồn giống trước khi cung ứng cho nông dân. Việc chủ động kiểm soát dịch hại và lúa cỏ không chỉ góp phần ổn định sản xuất, mà còn là bước đi quan trọng trong thực hiện Đề án 1 triệu hecta lúa ở vùng ĐBSCL, hướng tới sản xuất bền vững, an toàn.
Theo Bộ NN&MT, dự kiến sản lượng lúa toàn vùng ĐBSCL năm nay ước đạt trên 24 triệu tấn. Trong đó, vụ lúa Đông Xuân chiếm hơn 44% tổng sản lượng cả năm, đảm bảo được yêu cầu an ninh lương thực quốc gia và nguồn hàng xuất khẩu. Để đáp ứng yêu cầu của các thị trường, cơ cấu giống chất lượng cao, thơm, đặc sản chiếm tới 93% diện tích, phù hợp với định hướng của Đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL.
Phạm Hải/VOV-ĐBSCL
Link bài viết gốc: https://vov.vn/kinh-te/quan-ly-lua-co-bai-toan-cap-bach-cua-vua-lua-dong-bang-song-cuu-long-post1242143.vov


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét