Nhu cầu tăng cao, sản lượng thu hẹp: Cà phê Thái Lan đối mặt nghịch lý “bùng nổ và suy tàn” - TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Breaking

Home Top Ad

CHUYÊN TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2025

Nhu cầu tăng cao, sản lượng thu hẹp: Cà phê Thái Lan đối mặt nghịch lý “bùng nổ và suy tàn”

Cà phê Thái Lan đang có thời khắc của riêng mình, nhu cầu đối với các loại hạt đặc sản nội địa tăng vọt. Nhưng ngành công nghiệp này cũng đối diện nhiều thách thức: năng suất thấp do biến đổi khí hậu, chi phí tăng cao và sự cạnh tranh khốc liệt.


Chatree Saeyang, một nông dân cà phê lâu năm, đang kiểm tra trang trại của mình ở tỉnh Chiang Mai. (Ảnh: CNA/Jack Board)


Khi sương mù tràn qua dãy núi phía trên Chiang Mai, Chatree Saeyang leo lên những bậc thang gỗ dốc dẫn tới quán cà phê mộc mạc của mình - một “chốn trú ẩn giữa mây” cho những người yêu cà phê.


Chatree, 39 tuổi, là nông dân cà phê thế hệ thứ ba và cũng là người ham thử nghiệm.


Phía sau quầy bar là đủ loại dụng cụ pha chế. Khi máy pha espresso rền vang, người đàn ông quấn khăn quanh đầu đồng thời chuẩn bị một tách pour-over bằng chính những hạt cà phê mà anh đã trồng, lên men và rang.


Anh biết rõ cây nào cho quả nào và hương vị sẽ ra sao trong tách. Cà phê đặc sản của anh được tôn vinh, là một phần của làn sóng quốc gia ngày càng coi trọng quy trình hữu cơ và thủ công.


Thế nhưng hệ sinh thái tự nhiên nuôi dưỡng những người như Chatree đang đối mặt với thách thức chưa từng có.


Ngành cà phê Thái Lan đang bị định hình lại bởi một nghịch lý. Biến đổi khí hậu gây áp lực lên các trang trại miền núi và đẩy sản lượng đi xuống, trong khi văn hóa cà phê bùng nổ tại các đô thị lại khiến nhu cầu nội địa lập kỷ lục.


Giá cả tăng cao, nhập khẩu leo thang để bù khoảng trống, bức tranh cà phê Thái Lan hiện tại được đánh dấu bởi sự cạnh tranh gay gắt, đổi mới táo bạo và nỗ lực hướng đến bền vững.


Làng Khun Chang Kian nằm ở một trong những vùng trồng cà phê lâu đời nhất của Thái Lan. (Ảnh: CNA/Jack Board)


Nông dân ở điểm khởi đầu


Trang trại cà phê lâu năm của gia đình Chatree nằm tại làng Khun Chang Kian, một trong những vùng trồng cà phê lâu đời nhất Thái Lan, cách trung tâm Chiang Mai khoảng một giờ lái xe qua những con đường đèo uốn lượn.


Gia đình anh đã trồng cà phê suốt 5 thập kỷ nay. Kinh nghiệm dày dặn trên mảnh đất này cho anh thấy mọi thứ đang thay đổi.


Anh nhận ra mưa ngày càng thất thường, cây cối phải uốn mình thích nghi. Khi mùa thu hoạch đến, hương vị quả cà phê sẽ biến đổi, và nếu điều kiện không thuận lợi, sản lượng sẽ giảm.


“Ít trái nghĩa là ít tiền. Nhưng cây cà phê cũng cứng cỏi như chúng tôi; chúng phải thích nghi để tồn tại trong điều kiện thay đổi,” anh nói.


“Biến đổi khí hậu chắc chắn có tác động, nhưng nó không đồng nghĩa với chấm hết cho cà phê. Vẫn còn tương lai.”


(Ảnh: CNA/Jack Board – Chatree Saeyang pha pour-over tại quán cà phê ở Khun Chang Kian)


Biến đổi khí hậu giáng đòn lên ngành cà phê


Sự lạc quan của Chatree đối lập với xu thế toàn cầu. Thời tiết cực đoan đang khiến nông dân gặp khó trong việc trồng cà phê arabica - giống thường đắt hơn robusta, có hương vị phức hợp và được ưa chuộng ở các quán cà phê đặc sản.


Năng suất cà phê tại Thái Lan đã lao dốc trong những năm vừa qua. Năm 2023, Thái Lan chỉ sản xuất được 15.651 tấn hạt cà phê - khoảng 2/3 là arabica - trong khi sản lượng từng đạt hơn 86.000 tấn vào năm 2001.


Sự kết hợp của nhiệt độ tăng, mưa thất thường và gây hại, hạn hán kéo dài cùng sâu bệnh đang ngày càng đe dọa năng suất.


Diện tích trồng cũng giảm do nhiều nông dân chuyển sang trồng ngô hoặc các loại cây có giá trị cao hơn như sầu riêng.


“Ảnh hưởng không chỉ ở năng suất thấp mà còn làm giảm chất lượng - cà phê không còn đạt chuẩn như trước,” bà Jiraporn Inthasan, giảng viên nông nghiệp tái sinh tại Đại học Maejo, cho biết.


“Trong 20 năm nữa có thể Thái Lan sẽ không còn arabica. Không thể trồng được nữa,” bà nói.


Tình cảnh này không chỉ ở Thái Lan. Brazil và Việt Nam - hai cường quốc cà phê - cũng trải qua mùa vụ thất bát trong năm 2024, góp phần khiến giá cà phê thế giới chạm đỉnh 50 năm vào tháng 2.


Cà phê cực kỳ dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu. (Ảnh: CNA/Jack Board)


Ngành cà phê toàn cầu lo ngại nhiều nông dân nhỏ lẻ sẽ bỏ nghề, trong khi người mới sẽ ngần ngại bắt đầu. Đây là vấn đề lớn vì nông hộ nhỏ chiếm tới 70% sản lượng cà phê toàn cầu.


Vùng trồng cà phê chủ yếu nằm trong “vành đai cà phê” - từ 20°Bắc đến 30°Nam - cũng là khu vực dễ tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu.


“Rất nghiêm trọng, tôi còn gọi là khốc liệt,” bà Naruemon Taksaudom, sáng lập HILLKOFF - doanh nghiệp tập trung vào đổi mới và phát triển chuỗi giá trị cà phê - nhấn mạnh.


Tại Chiang Dao, công ty PANA Coffee mất 11 héc-ta trang trại do cháy rừng năm ngoái. Năm trước đó, mưa trái mùa khiến “mất rất nhiều vụ mùa”, theo lời sáng lập Kompit Panasupon.


“Bất kỳ ai trồng cây giờ cũng cảm nhận tác động. Đây là vấn đề lớn mà tất cả phải nghiêm túc đối diện. Không chỉ cà phê, mà là mọi ngành nông nghiệp,” Kompit nói.


Giải pháp có thể là đầu tư vào giống chống chịu khí hậu, đa dạng hóa cây trồng và áp dụng mô hình nông lâm kết hợp. Nhưng thời gian không còn nhiều khi Trái đất nóng dần lên.


(Ảnh: CNA/Jack Board – nhà nghiên cứu từ Đại học Chiang Mai tỉa cành cà phê ở Chiang Dao)


Nhu cầu không ngừng tăng


Khi cà phê bắt đầu được trồng ở Thái Lan cuối thập niên 1960, người Thái hầu như không uống cà phê. Ban đầu, arabica được đưa vào miền núi phía Bắc như một mô hình thay thế cho cây thuốc phiện.


Đến năm 2025, thị trường nội địa được định giá 65 tỷ baht (2 tỷ USD), theo Bộ Thương mại Thái Lan.


Từ 1995 đến trước đại dịch 2020, tiêu thụ cà phê tăng hơn 10 lần. Người Thái hiện uống trung bình 340 tách/năm.


Trên toàn cầu, thị trường cà phê được định giá 245 tỷ USD vào năm ngoái và dự kiến đạt 382 tỷ USD vào năm 2034, tăng trưởng 4,5%/năm, theo Precedence Research.


Phân khúc hữu cơ dự kiến tăng nhanh nhất. Trong đó, Thái Lan không nhắm tới sản lượng lớn mà tập trung vào phân khúc giá trị cao: cà phê đặc sản, hữu cơ và sản xuất bởi nông hộ nhỏ.


Cà phê đặc sản chỉ chiếm khoảng 10% sản lượng - khoảng 5.000 tấn/năm - nhưng đem về 20% giá trị. Đây là “con gà đẻ trứng vàng” với những ai đủ khả năng khai thác.


Ở Thái Lan, thuật ngữ “cà phê đặc sản” ngoài ý nghĩa kỹ thuật (được chấm điểm theo hương thơm, vị, độ chua, cân bằng, hậu vị…) còn được dùng rộng rãi để chỉ cà phê có truy xuất nguồn gốc, thường do nông dân miền núi trồng và phục vụ tại các quán cà phê “làn sóng thứ ba”.


“Thái Lan may mắn khi văn hóa cà phê được đón nhận mạnh, nhu cầu - cùng sự tò mò về giống và hương vị mới - đã vượt xa nguồn cung,” bà Naruemon nói.


Các quán cà phê đang định hình cà phê đặc sản như một trải nghiệm. (Ảnh: CNA/Jack Board)


Ở Chiang Mai, cơn khát cà phê hiện rõ. Năm ngoái có 1.700 quán cà phê mới mở, trong khi 400 quán đóng cửa, theo nền tảng LINE MAN Wongnai.


Akha Ama Coffee Roasters là một trong những thương hiệu tiên phong. Ngay cả trước 8h sáng, khách đã xếp hàng bên ngoài. Đồng sáng lập Lee Ayu Chuepa mong muốn đây không chỉ là cửa hàng mà còn là doanh nghiệp xã hội, hỗ trợ cộng đồng dân tộc thiểu số trồng cà phê.


Lee cũng đưa cà phê Thái ra quốc tế; một xưởng rang Akha Ama đã mở ở Tokyo năm ngoái.


Lee Ayu Chuepa pha chế cà phê tại Akha Ama Coffee Roasters ở Chiang Mai. (Ảnh: CNA/Jack Board)


“Chúng tôi không thể ngăn cản nhu cầu. Nó chắc chắn sẽ tiếp tục tăng, và đó có lẽ là điều tốt,” Lee nói.


“Chúng tôi kết hợp trí tuệ nông nghiệp cổ xưa của gia đình với kỹ thuật hiện đại, giúp giới trẻ có nghề bền vững.”


Tuy nhiên, không phải nông dân nào cũng có cơ hội như vậy. Sản xuất cà phê đặc sản đòi hỏi kỹ năng, kiến thức, trang thiết bị và cả năng lực tiếp thị.


Đa số nông dân miền núi - chủ yếu là đồng bào dân tộc - chỉ quan tâm làm sao tăng năng suất. Nhiều doanh nghiệp lớn đứng ra mua hạt, rồi phát triển thương hiệu.


Dẫu vậy, Naruemon cho rằng cà phê đặc sản vẫn là cơ hội cải thiện đời sống nếu làm đúng: “Đó là vòng tròn tích cực: đất khỏe, năng suất cao, chất lượng tốt, cuộc sống khỏe mạnh,” bà nói.


PANA Coffee đang nỗ lực kết nối nông hộ với người tiêu dùng, thông qua dự án Project Shade hợp tác với 22 nhóm nông dân tại nhiều tỉnh để áp dụng canh tác hữu cơ.


“Thái Lan chưa đủ cà phê cho chính mình. Vẫn còn dư địa phát triển, dù quỹ đất là một vấn đề. Nhưng nếu nhiều nông dân áp dụng canh tác hữu cơ chung, chúng ta có thể sản xuất nhiều cà phê đặc sản hơn,” ông Kompit nói.


Một nhân viên của PANA Coffee kiểm tra hạt cà phê đã rang tại trụ sở công ty ở Chiang Mai. (Ảnh: CNA/Jack Board)


Ngoài ra, PANA còn đào tạo chuyên gia, mời nông dân nếm thử chính sản phẩm của họ - điều hiếm gặp - để tạo bước ngoặt nhận thức.


“Đó là cầu nối: khi nông dân hiểu khẩu vị người tiêu dùng, họ sẽ biết cách cải thiện mùa vụ.”


Lee cho biết sự thay đổi đã xuất hiện: nhiều bạn trẻ ở lại miền núi hoặc quay về với kỹ năng mới.


“Làm nông thường ít người tự hào, nhưng với cà phê, chúng tôi cảm thấy mình là người tiên phong và hãnh diện. Đây có thể là ‘cú xoay chuyển cuộc chơi’ của Thái Lan, nếu giữ được chất lượng.”


Những hạt cà phê sẵn sàng để rang tại Nana Coffee Roasters ở Bangkok. (Ảnh: CNA/Jack Board)


Từ hàng hóa đến “xa xỉ phẩm”?


Các nhà rang xay và quán cà phê đặc sản phải cân bằng giữa xu hướng bùng nổ với thực tế: chi phí tăng, kinh tế trong nước ảm đạm, nguồn cung hạn chế.


Giá cà phê arabica đã tăng 63% từ 2015 đến 2024, lên 9 USD/kg. Robusta cũng tăng gần gấp 3 lần từ 2020.


Khi sản lượng cà phê Thái Lan giảm, các quán tranh nhau tìm hạt chất lượng, thậm chí ký hợp đồng nhiều năm trước thu hoạch.


“Cạnh tranh tới mức phải trả tiền cho hạt còn chưa mọc. Với một số người, đó là rủi ro lớn,” ông Han Wang, đồng sáng lập PHIL Coffee tại Bangkok, chia sẻ.


Han Wang, thợ rang cà phê thủ công và đồng sáng lập PHIL Coffee ở Bangkok. (Ảnh: CNA/Jack Board)


Theo chính phủ, Thái Lan cần nhập khoảng 80.000 tấn cà phê/năm. Nhưng cà phê từ ngoài ASEAN, như châu Phi và Nam Mỹ, chịu thuế nhập khẩu tới 90%.


Các nhà rang xay và bán lẻ phải gánh chi phí này, trong khi không dễ nâng giá tách cà phê vì cạnh tranh.


“Cách duy nhất là nâng chất lượng cà phê nội địa. Giờ đã ngon hơn nhiều so với hai thập kỷ trước, thực sự rất tốt. Nhưng vấn đề vẫn là sản lượng,” Han Wang nói.


Dù hàng ngàn quán mới mở mỗi năm, tỷ lệ đóng cửa cũng cao - tới 43% trong năm đầu, theo LINE MAN Wongnai.


Các quán cà phê thế hệ mới, như Nana Coffee Roasters, đang ngày càng xuất hiện nhiều hơn trên khắp Thái Lan. (Ảnh: CNA/Jack Board)


Để hợp lý hóa giá cao, nhiều quán bán cà phê như một trải nghiệm. “Chúng tôi không bán cà phê, mà bán trải nghiệm,” ông Wasin Kusakabe, quán quân Brewers Cup 2024 và đại diện Nana Coffee Roasters, chia sẻ.


Wasin so sánh ngành cà phê đang dịch chuyển, coi cà phê như rượu vang hay whisky - một sản phẩm xa xỉ. Ở Bangkok, latte hoặc americano thường giá 100 - 140 baht, nhưng cà phê cao cấp có thể tới 400 - 600 baht.


“Nhận thức đang thay đổi. Chúng tôi không muốn tăng giá, nhưng cần khách hàng hiểu những gì đang diễn ra với thế giới,” anh nói.


NPK/ (CNA/jb)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét