» » Công nghệ bảo quản Nhật: Xem thì nhiều, mua không dám?

Hiện hệ thống máy móc thiết bị CAS có thể bảo quản được 100 kg vải mỗi giờ, doanh nghiệp muốn nâng cao công suất phải mua máy đắt tiền hơn.

Khó mua được vì... đắt quá!

Nhật Bản đã chuyển giao cho Việt Nam công nghệ bảo quản nông sản, thực phẩm CAS hiện đại nhất hiện nay. Với nguyên lý kết hợp giữa từ trường và đông lạnh nhanh, công nghệ này giúp nông thủy sản giữ được tươi ngon như lúc ban đầu trong thời gian lên đến 10 năm.

Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa thể áp dụng đại trà công nghệ này. Ths Tạ Thu Hằng, Viện Nghiên cứu và Phát triển vùng (Bộ KH&CN) cho biết, Viện đã thử nghiệm thành công công nghệ CAS đối với một số sản phẩm như quả vải, nhãn, cá ngừ và tôm, tuy nhiên để ứng dụng đại trà thì khó bởi đây là công nghệ rất đắt tiền, doanh nghiệp vừa và nhỏ khó mua được.

"Hiện hệ thống máy CAS trang bị tại Viện Nghiên cứu và Phát triển vùng có giá khoảng 20 tỷ đồng, chỉ bảo quản được 100kg mỗi giờ, một ngày cùng lắm bảo quản được 1 tấn. Doanh nghiệp muốn làm ít nhất phải đầu tư máy có công suất 1 tấn/giờ, giá khoảng 40 tỷ đồng, chưa kể phải đầu tư nhà xưởng và các thứ khác. Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể bỏ ra ngần ấy tiền", bà Hằng chia sẻ.

Công nghệ CAS đã thử nghiệm thành công nhưng khó áp dụng đại trà. Ảnh minh hoạ: Tuổi trẻ

Vì thế, để giảm chi phí, bà Hằng cho hay, doanh nghiệp thường đầu tư vào những nơi đã có sẵn dây chuyền bảo quản nông thuỷ sản, chỉ cần nâng cấp kho, lắp thêm bộ từ. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp chỉ sử dụng công nghệ CAS để bảo quản vải thì khó hiệu quả. Thay vào đó, doanh nghiệp nên áp dụng công nghệ này trên quy mô lớn, với nhiều loại rau, củ, quả khác để thu hồi vốn nhanh.

"Bởi đầu tư công nghệ CAS hoàn toàn mới từ đầu sẽ rất đắt nên mọi người đến xem hệ thống máy này thì nhiều nhưng cho đến nay, chưa có công ty nào dám đầu tư công nghệ CAS. Hiện chỉ có Viện Nghiên cứu và phát  triển vùng có máy này", bà Hằng nói.

Cũng liên quan đến công nghệ này, năm ngoái, Viện Nghiên cứu và Phát triển vùng đã xuất khẩu thí điểm 10 tấn vải sử dụng công nghệ bảo quản CAS sang Nhật Bản. Theo bà Tạ Thu Hằng, chuyến đi này không phải để bán vải mà mang ý nghĩa chào hàng: "Khi đó có hội chợ ở Nhật Bản, chúng tôi đã test thử 1.000 khách ăn và họ cho biết mức giá 300.000 - 400.000 đồng/kg vải là chấp nhận được".

Hiện nay, việc bảo quản trái cây theo công nghệ nào là tuỳ thuộc vào yêu cầu của nước nhập khẩu. So sánh công nghệ bảo quản CAS với công nghệ chiếu xạ mà nhiều loại hoa quả xuất khẩu sang Mỹ, Úc đang áp dụng, Ths Tạ Thu Hằng cho rằng: "Xuất khẩu trái cây sang Mỹ phải thực hiện chiếu xạ và đi bằng máy bay nên đắt. Trong khi đó, ưu điểm của CAS là doanh nghiệp có thể bán trái vụ, đi đường biển rẻ. 15 ngày trên biển, hoa quả có thể bảo quản trong container -25 độ C, sang đó có thể để trong kho bán quanh năm. Cái hay của hoa quả xuất sang Mỹ hiện nay là người tiêu dùng được ăn quả tươi, còn công nghệ CAS là đông lạnh tươi, trước khi ăn phải rã đông, dĩ nhiên mùi vị, chất lượng của quả vẫn tươi".

Trước câu hỏi số tiền thu được từ bán quả trái vụ liệu có đủ bù đắp chi phí bảo quản bằng công nghệ CAS, bà Hằng cho biết, dĩ nhiên công nghệ này đắt nhưng không phải không chịu được. Sử dụng công nghệ bảo quản này chỉ đắt ở khâu đông lạnh ban đầu, các chi phí về sau như sử dụng kho lạnh không đáng kể. 

Bài toán kinh tế

Đánh giá cao thành công về mặt kỹ thuật của công nghệ bảo quản đến từ Nhật Bản nhưng ông Nguyễn Duy Đức, Phó Viện trưởng Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN&PTNT) cũng cho rằng chỉ có thể sử dụng công nghệ này cho một vài đối tượng thực sự quan trọng và có giá trị cao chứ không thể áp dụng đại trà bởi làm sao có thể chịu nổi tiền điện và các chi phí khác?!

"Cứ nói thử nghiệm thành công công nghệ CAS nhưng cần làm rõ đó là thành công về kỹ thuật hay kinh tế? Nếu thời gian bảo quản tăng lên, quả tươi...  đó là hiệu quả về kỹ thuật. Nhưng nếu thành công về mặt kinh tế thì phải là với mức giá vài trăm nghìn một kg vải ai có thể mua, bán ở đâu, chi phí liên quan thế nào?...

Tôi không trực tiếp nghiên cứu công nghệ này nhưng qua các tài liệu thì thấy không thể áp dụng đại trà công nghệ CAS cho tất cả các loại nông sản. Riêng đối với quả vải, một kg vải Việt Nam ra nước ngoài không thể cạnh tranh được với vải Trung Quốc. Doanh nghiệp mua tại nhà vườn 15.000 đồng/kg, vận chuyển để đi chiếu xạ rồi từ đó vận chuyển qua Mỹ, Úc... cộng vào đắt hơn vải Trung Quốc 2-4 USD. Đây chính là bài toán kinh tế cần phải tính toán", ông Đức phân tích.

Để tính được bài toán này, theo Phó Viện trưởng Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, cần có sự vào cuộc của doanh nghiệp.

"Hãy xuất thử sang Nhật và phải có một công ty kinh doanh "nhảy" vào để tính toán. Khi làm kinh doanh phải tính theo thời vụ, thuế nhập khẩu, xuất khẩu, thuế kiểm dịch, bảo hiểm..., bán cho bên kia chiết khấu bao nhiêu, tổn thất trừ đi thế nào, chi phí bao bì, quảng cáo... cộng vào mới ra được 1 đơn hàng đầy đủ. Về kỹ thuật tôi không nghi ngờ gì công nghệ này nhưng để thành công về mặt kinh tế cần tính toán kỹ, nếu không tất cả các nước đã áp dụng từ lâu".

Ông Nguyễn Duy Đức cũng chỉ rõ những bất cập đang tồn tại: "Công nghiệp phụ trợ của Việt Nam rất kém, không có kho lưu trữ ở các sân bay quốc tế, không có đơn hàng với các bạn hàng quốc tế, không ký hợp đồng với đối tác bên kia. Các kho trung chuyển ở cảng chủ yếu cho thuê, không có nhà lạnh chuyên bảo quản rau quả, phí cao, vận chuyển máy bay, chiếu xạ rất đắt so với các nước...".

Bởi thế, một lần nữa ông Đức nhấn mạnh, không thể thấy vài ba tấn trái cây xuất ngoại là vỗ tay hoan hô, vấn đề chính là phải tính toán vấn đề kinh tế và ứng dụng.

Thành Luân (Báo Đất Việt)

Về Tin tức nông nghiệp

Chuyên tin tức nông nghiệp, chỉ tin tức nông nghiệp. tintucnongnghiep.com là một blog chia sẻ tin tức nông nghiệp Việt Nam và thế giới theo tiêu chí kết nối, chia sẻ và phi lợi nhuận.
«
Trước
Bài đăng Mới hơn
»
Sau
Bài đăng Cũ hơn

Không có nhận xét nào:

Chia sẻ của bạn về bài viết này: