Tái cơ cấu ngành lúa gạo là sắp xếp lại hệ thống sản xuất, kinh doanh, chuyển từ nền sản xuất manh mún, nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn, áp dụng khoa học công nghệ cao đồng thời phát huy tối đa vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị ngành hàng thông qua việc liên kết sản xuất lúa gạo theo hợp đồng. Chính vì vậy, muốn tái cơ cấu thành công, phải thay đổi từ chính chủ thể sản xuất và kinh doanh, đó là: nông dân và doanh nghiệp.
Bài 2: Ðột phá từ chủ thể sản xuất và kinh doanh
Thu hoạch lúa trên cánh đồng lớn huyện Vị Thủy (Hậu Giang).
Nông dân chuyên nghiệp
Trong cuộc trò chuyện với anh Lê Văn Mưa, Tổ trưởng Tổ hợp tác ấp 5, xã Trí Lực, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, khi được hỏi: Các hộ dân trong tổ hợp tác, khi ký hợp đồng bao tiêu lúa gạo với doanh nghiệp rồi nhưng khi thu hoạch, thương lái trả cao hơn thì nông dân có bán cho doanh nghiệp nữa không? Anh Mưa cười xòa, rồi lắc đầu. Suy nghĩ đơn giản của anh hay của bà con trong ấp chính là xuất phát từ nền sản xuất quy mô nhỏ, manh mún, tăng được giá nào hay giá ấy trong từng mùa vụ mà không tính đến chuyện giữ "chữ tín". Hay chuyện sản xuất lúa theo Dự án canh tác lúa giảm phát thải khí nhà kính ở Hợp tác xã (HTX) Kênh 7B, xã Thạnh Ðông A, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang cũng vậy. Dự án thực hiện theo quy trình "một phải, sáu giảm", trong đó chỉ phải sử dụng giống xác nhận (cấp nhà nước), còn lại là giảm lượng gieo sạ, giảm phân bón (nhất là phân đạm), giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm nước tưới..., nhưng nông dân rất e dè và tham gia "cầm chừng" vì họ lo ngại giảm quá nhiều nguyên liệu đầu vào sẽ dẫn đến sản lượng, năng suất kém. Trong khi thực tế, sản xuất theo quy trình kỹ thuật công nghệ cao thì dù nguyên liệu đầu vào có giảm nhưng năng suất vẫn bảo đảm, thậm chí tăng, đồng thời còn có tác dụng bảo vệ môi trường, tránh sâu bệnh cho những vụ mùa sau.
Vậy, nguyên nhân của sự e dè này là do đâu? Viện trưởng Nghiên cứu và phát triển ÐBSCL Nguyễn Văn Sánh phân tích: Ðiều này bắt nguồn từ thói quen canh tác lạc hậu và tư duy ngại thay đổi của người nông dân. Trong khi đó, nền sản xuất lúa gạo hàng hóa quy mô lớn đòi hỏi phải cơ giới hóa và áp dụng công nghệ canh tác tiên tiến. Chính vì vậy, đào tạo lực lượng nông dân chuyên nghiệp là một trong những yêu cầu cần thiết đầu tiên để tiến hành tái cơ cấu ngành lúa gạo.
Khi nông dân chuyên nghiệp thì mới hình thành được những chủ trang trại sản xuất hàng hóa lớn, có nhu cầu và khả năng liên kết bình đẳng với các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ lúa gạo. Và từ sự liên kết dọc ấy, chắc chắn sẽ nảy sinh yêu cầu mối liên kết ngang giữa nông dân với nhau thông qua mô hình HTX và Tổ hợp tác. Ðây là đầu mối lo "đầu vào" và "đầu ra" cho sản xuất lúa gạo, dần dần tiến tới thực hiện thương nghiệp công bằng. Tuy nhiên, ông Sánh cũng thẳng thắn nhìn nhận: Hiện, các tổ chức nông dân, nhất là các HTX vẫn chậm hình thành, hoặc nếu có thì năng lực quản lý yếu. Các Tổ hợp tác hoạt động hiệu quả trong hỗ trợ nhau thực hiện kỹ thuật theo yêu cầu của doanh nghiệp nhưng lại không có tư cách pháp nhân và không có khả năng đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh như hệ thống sấy, kho chứa, phương tiện vận chuyển... Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các HTX và Tổ hợp tác là do chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ phù hợp về tín dụng, đất đai, chính sách cán bộ và đào tạo cán bộ, xã viên HTX.
Ngoài ra, một "rào cản" khác đối với việc hình thành và phát triển đội ngũ nông dân chuyên nghiệp hiện nay là sự thiếu hụt lao động, nhất là lao động trẻ. Những năm gần đây, do làm nông nghiệp không đem lại hiệu quả kinh tế, một lực lượng lớn lao động trẻ trong nông nghiệp ở ÐBSCL đã và đang chuyển đến những thành phố lớn để tìm việc làm mới. Ðến những vùng quê ÐBSCL giờ đây, điều dễ nhận thấy nhất là sự hiu hắt, vắng bóng người dù ruộng vườn vẫn trải dài ngút ngàn tầm mắt. Vào mỗi vụ thu hoạch lúa, nhân công lại càng trở nên khan hiếm và đắt đỏ. Khi không có thế hệ "thanh niên tri điền" thay thế thế hệ "lão nông tri điền" tiếp cận cái mới, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để hướng tư duy đến việc trở thành một nhà nông chuyên nghiệp thì nền sản xuất lúa gạo hàng hóa lớn mãi sẽ chỉ là giấc mơ xa vời.
Doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh dài hạn
Cùng với việc hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp thì hệ thống doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu lúa gạo cũng phải được cơ cấu lại. Hiện, các doanh nghiệp vẫn kinh doanh theo kiểu "ăn xổi, ở thì", chưa chú trọng đến đầu tư vùng nguyên liệu, mô hình liên kết chỉ xây dựng theo kiểu đối phó, phong trào, chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn. Do đó, chất lượng lúa gạo thu mua không đồng đều, dẫn đến giá xuất khẩu thấp... là những rào cản cho việc tái cơ cấu ngành lúa gạo. Mặc dù từ năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định 109/2010/NÐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo với các điều kiện về vùng nguyên liệu, kho chứa, cơ sở xay xát... nhưng việc thực hiện trên thực tế còn lỏng lẻo, nhiều doanh nghiệp chưa đạt quy mô vùng nguyên liệu tối thiểu sau hai năm đề ra.
Mới đây, Bộ Công thương đã có Quyết định 606/QÐ-BCT ngày 21-1-2015 về việc ban hành lộ trình xây dựng vùng nguyên liệu, hoặc thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ thóc gạo của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo giai đoạn 2015 - 2020. Tuy nhiên, theo đánh giá của các địa phương, lộ trình này cũng không hề đơn giản. Trưởng phòng Quản lý Xuất, nhập khẩu và Hợp tác kinh tế quốc tế (Sở Công Thương tỉnh Kiên Giang) Ngô Quang Bình cho biết: Sau khi triển khai Quyết định 606 của Bộ Công thương, đến nay mới chỉ có Công ty TNHH MTV Xuất, nhập khẩu Kiên Giang có phương án cụ thể. Còn lại các doanh nghiệp khác đều giữ nguyên hình thức liên kết thông qua ký hợp đồng tiêu thụ như trước. Theo ông Bình, cái khó của việc thực hiện Quyết định 606 một phần đến từ năng lực tài chính của doanh nghiệp, phần khác là từ chính sách đối với thương nhân xây dựng vùng nguyên liệu. Theo Quyết định, thương nhân được hưởng các chính sách quy định tại nhiều nghị định, quyết định khác nhau đã được ban hành về phát triển nông nghiệp. Song, tại không ít văn bản, quy định hỗ trợ cho thương nhân lại thuộc ngân sách địa phương, trong khi nguồn ngân sách địa phương phân bổ cho nông nghiệp có hạn cho nên không dễ triển khai.
Về phía doanh nghiệp, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông lâm nghiệp Phan Minh Nguyễn Trung Tín chia sẻ: Năm 2015, vùng nguyên liệu thuộc quyền quản lý sử dụng của công ty tự sản xuất là 900 ha. Quy mô lộ trình xây dựng vùng nguyên liệu của công ty giai đoạn 2015 - 2020 là 2.900 ha. Nhưng, hiện nay công ty vẫn chưa được hưởng chính sách ưu đãi nào cho nên việc triển khai gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ là một chuyện, nhưng trong tiến trình xây dựng, nếu không có sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ của các ngành chức năng thì sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng vùng nguyên liệu của doanh nghiệp báo cáo chỉ trên giấy tờ. Khi doanh nghiệp không có vùng nguyên liệu hoặc thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ kém thì không thể tái cơ cấu ngành lúa gạo. Bản thân doanh nghiệp cũng phải thừa nhận vai trò mờ nhạt của mình trong ngành lúa gạo hiện nay. Ðể thay đổi, ông Nguyễn Trung Tín cũng xác định một hướng đi cho doanh nghiệp mình là xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, tập trung vào thị trường nội địa, xác định loại gạo ở từng phân khúc. Từ đó, xây dựng thương hiệu cho hạt gạo Việt Nam rồi mới hướng đến xuất khẩu theo đơn đặt hàng.
Song hành với sự thay đổi từ nông dân và doanh nghiệp, để tái cơ cấu ngành lúa gạo cần thiết phải có khung pháp lý minh bạch, thuận lợi và các chính sách khuyến khích phát triển ngành hàng một cách hợp lý và hiệu quả của Nhà nước và các cơ quan hữu quan.
Theo đó, có chính sách đào tạo miễn phí cho nông dân về kỹ năng sản xuất và quản lý hiện đại, để mở đường cho việc họ sẽ trở thành chủ nhân của những trang trại gia đình và là quản lý của các hợp tác xã đủ mạnh trong tương lai. Ðối với doanh nghiệp, đẩy mạnh và khơi thông chính sách tài trợ vốn và lãi suất tín dụng để nâng cao năng lực tài chính trong tiến trình đầu tư mở rộng vùng nguyên liệu, xây dựng nhà máy chế biến, kho bảo quản lúa gạo hiện đại... Mặt khác, cần đề cao hơn nữa vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong việc quan tâm đến sản xuất nông nghiệp.
Và sau cùng, là vai trò của Nhà nước trong việc hạn chế độc quyền xuất khẩu và nâng cao thái độ trân trọng nông sản như TS Phạm Duy Nghĩa từng đặt ra trong bài viết "Nông thôn, nông dân từ góc nhìn sở hữu" (in trong cuốn "Nông dân, nông thôn và nông nghiệp - Những vấn đề đang đặt ra" của Nhà xuất bản Tri thức): "Phần từ hạt gạo xuất khẩu dành cho nông dân có đủ lớn mới giữ được họ ở lại với ruộng đồng. Phần ấy có từ việc hạn chế độc quyền xuất, nhập khẩu, hạn chế trung gian, song phần ấy cũng có thể khéo léo được tạo ra dưới đủ loại hình thức hỗ trợ mà quốc gia nào cũng hỗ trợ cho nông dân của mình, ví dụ dưới dạng các tài trợ hợp pháp cho thủy lợi, giống, phòng trừ sâu bệnh, hỗ trợ kỹ thuật. Thêm một điều mà Nhà nước phải làm đó là khéo léo nâng cao thái độ trân trọng nông sản Việt Nam trong nhận thức và thói quen của dân chúng. Nông dân chỉ bám ruộng khi nông sản được giá, nông sản chỉ có giá khi được người mua tin dùng, cái vốn xã hội lớn lao dành cho nông sản Việt Nam chỉ có thể tạo ra với một thái độ rõ rệt của Nhà nước".
Sau hơn một năm triển khai Quyết định 62/2013/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn liền với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn và Thông tư 15/2014/TT-BNN-KTHT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc thực hiện ở các địa phương mới chỉ dừng lại ở giai đoạn "nghiên cứu, chuẩn bị". Theo thống kê của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, tại ÐBSCL, có 4 trong số 13 tỉnh đã trình và được UBND tỉnh phê duyệt danh sách Ban Chỉ đạo cánh đồng lớn; ba tỉnh đang chờ phê duyệt và sáu tỉnh chưa triển khai. 7 trong số 13 tỉnh đã trình UBND tỉnh quy mô diện tích tối thiểu cánh đồng lớn nhưng cũng mới chỉ có ba tỉnh được phê duyệt. 5 trong số 12 tỉnh đã xây dựng quy hoạch hoặc kế hoạch cánh đồng lớn nhưng chưa tỉnh nào được phê duyệt.
Bài viết liên quan:
Bài và ảnh: Ánh Tuyết/ Báo Nhân dân

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét