Giải bài toán thương mại và xuất khẩu chè - TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Breaking

Home Top Ad

Responsive Ads Here

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2013

Giải bài toán thương mại và xuất khẩu chè

VINAGRI NewsQuy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ; chất lượng sản phẩm không cao; sự phát triển tự phát của nhiều cơ sở chế biến vừa và nhỏ; có quá nhiều khâu trung gian trong XK chè dẫn đến cảnh tranh mua tranh bán… đã và đang là những “lực cản” trong quá trình phát triển của ngành chè Việt Nam.


Ngành chè có thể học hỏi cách thức tổ chức của ngành cà phê. Đối với ngành cà phê, hiện đã thành lập Hội đồng ngành hàng cà phê. Đây là tổ chức vẫn thường được gọi là liên kết công tư, có vai trò của Nhà nước, có vai trò của DN cả trong nước lẫn nước ngoài và đặc biệt phải có vai trò của nông dân. Cách thức tổ chức này khá đặc biệt, vừa của Nhà nước, vừa của nhân dân; vừa của doanh nhân, vừa nông dân; vừa Trung ương vừa địa phương; vừa trong nước vừa quốc tế. Cách làm đó giúp tăng cường vai trò làm chủ của tất cả các đối tượng trong chuỗi giá trị, thực sự là phân cấp, phân quyền và gắn quá trình ra quy định cho những đối tượng thực sự tham gia sản xuất kinh doanh. Nếu ngành chè có thể áp dụng mô hình này thì việc tổ chức quản lý, sản xuất, liên kết ngành hàng trở nên rất tự nhiên, hiệu quả, sự phát triển mới có thề bền vững.

Thách thức lớn

Theo TS. Nguyễn Quốc Vọng, chuyên gia nông nghiệp, Ban tư vấn Dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học (QSEAP): Mặc dù là một trong những nước XK chè lớn trên thị trường thế giới nhưng chè Việt Nam chưa có thương hiệu cũng như chỉ dẫn địa lý toàn cầu. Thị trường XK chè của Việt Nam chia thành những nhóm thị trường có quy mô NK khác nhau, trong đó Pakistan, Đài Loan (Trung Quốc), Iran và Nga là những thị trường NK nhiều chè của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 16%, 13%, 11% và 11%.

Chất lượng chè của chúng ta chưa được đánh giá cao, sản phẩm XK ít có giá trị gia tăng và không có thương hiệu tại các thị trường lớn (giá chè XK của Việt Nam thấp nhất trong top 10 quốc gia XK chè lớn nhất thế giới). Chính vì giá trị XK thấp (giá chè XK bình quân của Việt Nam chỉ khoảng 1,4 USD/kg, trong khi của Srilanca là 5,7 USD/kg, Kenya trên 6 USD/kg) nên nông dân trồng chè cũng như các DN thường không quan tâm cải thiện chất lượng chè nguyên liệu. Điều này làm cho việc cải thiện tình hình XK chè trở nên khó khăn.

Liên quan tới vấn đề chất lượng chè thấp, theo ông Nguyễn Xuân Hồng-Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), điểm mấu chốt là tình trạng sử dụng tràn lan thuốc bảo vệ thực vật khiến sản phẩm chè tồn dư nhiều hóa chất độc hại, làm giảm sút chất lượng chè vẫn diễn ra khá phổi biến. Ông Hồng cho biết, mặc dù ngành chức năng, các địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức người trồng chè, nhiều mô hình sản xuất chè an toàn được triển khai, tỷ lệ các mẫu chè còn tồn dư thuốc bảo vệ thực vật giảm nhưng ở nhiều địa phương, tình trạng nông dân sử dụng các sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục vẫn còn phổ biến. Thuốc có nguồn gốc hóa học chiếm trên 80% với nồng độ phun cao, không theo khuyến cáo. Đặc biệt, nhiều bà con nông dân còn có xu hướng kết hợp nhiều loại thuốc với nhau, điều này vô hình trung làm giảm hiệu quả sử dụng thuốc, tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường.

Đồng tình với các quan điểm nêu trên, bà Nguyễn Thị Ánh Hồng, Tổng thư ký Hiệp hội Chè Việt Nam (Vitas) bổ sung, một trong những vấn đề rất đáng lo ngại của ngành chè Việt Nam hiện nay còn là tình trạng phát triển manh mún, nhỏ lẻ. Cụ thể, số lượng cơ sở sản xuất nhỏ lẻ tiếp tục tăng (300 cơ sở trong tổng số 455 cơ sở chế biến của ngành có công suất trên 1 tấn/ngày). Việc kiểm tra tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và các quy định trong nhà máy trung bình và lớn tiến hành đều đặn nhưng chưa áp dụng cho các cơ sở nhỏ lẻ. Những điều này cũng gây ảnh hưởng nhất định tới chất lượng chè Việt. Đáng đề cập hơn cả là trong thương mại và XK chè, hiện nay có thêm tới 265 đơn vị đầu mối XK, trong khi sản lượng chè giảm tới 20%, thị trường giảm sút (61 thị trường so với 77 thị trường trước kia) dẫn đến hiện tượng tranh mua tranh bán ngay trên vùng nguyên liệu của nhau suốt một thời gian dài. Ngoài ra, việc có quá nhiều khâu trung gian trong quá trình kinh doanh, thương mại chè cũng đã tác động rất lớn, làm giảm chuỗi giá trị chè.

Đột phá trong tổ chức sản xuất

Theo bà Hồng, muốn phát triển ngành chè bền vững, cần tổ chức lại ngành với một cơ quan quản lý Trung ương một cách thống nhất và hiệu quả; quy hoạch vùng chè để nâng cao năng suất, chất lượng, tính an toàn của nguyên liệu chè búp tươi; quy hoạch, sắp xếp lại và giảm số lượng nhà máy chế biến, trong đó yêu cầu bắt buộc nhà máy chế biến phải có liên kết với vùng nguyên liệu và phải nghiêm chỉnh áp dụng quy trình thực hành chế biến tốt (GMP). Bên cạnh việc xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu để đẩy mạnh XK cũng cần phát triển, thúc đẩy tiêu thụ tại thị trường trong nước vì thực tế đây là thị trường tiềm năng, rộng lớn, sức tiêu thụ mạnh.

TS. Đặng Kim Sơn-Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ NN&PTNT) cho rằng: Hiện nay không riêng chè mà hầu hết các ngành sản xuất nông nghiệp của Việt Nam đều rơi vào tình trạng giá trị gia tăng thấp. Muốn chè phát triển bền vững, cần tạo ra đột phá trong khâu tổ chức sản xuất để cho tất cả mọi người có động lực, ai làm tốt thì được thưởng, xấu bị phạt và hình phạt cao nhất là bị loại ra khỏi chuỗi giá trị.

Ông Nguyễn Quốc Vọng, chuyên gia nông nghiệp: Chất lượng chè phải được đánh giá bằng máy móc

Việt Nam đang đánh giá chất lượng chè bằng mắt thường và điều này là không chính xác. Chất lượng chè phải được đánh giá bằng máy móc với các con số khoa học cụ thể. Ở Nhật Bản đã sử dụng máy móc hiện đại vào việc đánh giá chất lượng chè, và theo đó chè có điểm AF trên 50 là chè chất lượng cao. Bên cạnh việc xem xét lại cách đáng giá chất lượng, ngành chè Việt Nam cũng cần chú trọng hơn nữa tới việc đẩy mạnh triển khai thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho chè búp tươi an toàn tại Việt Nam. Bởi hiện nay, diện tích chè đạt tiêu chuẩn VietGAP (thực hành sản xuất nông nghiệp an toàn) vẫn còn thấp. Để cải thiện chất lượng nguồn nguyên liệu thì Nhà nước nên có chính sách khuyến khích nông dân, DN sản xuất theo các mô hình VietGAP.

Ông Flavio Corsin, đại diện của Sáng kiến Thương mại bền vững (IDH): Ngành chè Việt đang vướng vào vòng luẩn quẩn

Hiện nay, tình trạng số lượng nhà máy chế biến chè tại Việt Nam có xu hướng tăng nhanh, dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu chế biến. Từ đó, DN sẵn sàng mua nguyên liệu với bất kỳ chất lượng nào khiến người dân không muốn cố gắng sản xuất sản phẩm chất lượng tốt hơn mà chỉ chú ý tới số lượng, có thế nào bán thế ấy. Điều này sẽ khiến chất lượng sản phẩm ngày một giảm, đồng nghĩa với đó là thu nhập của nông dân đi xuống. Thu nhập đi xuống hiển nhiên nông dân lại thiếu chi phí đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng nên chè Việt có khả năng cạnh tranh khá thấp trên thị trường quốc tế. Đó là một vòng luẩn quẩn đã nhiều năm nay mà ngành chè Việt Nam vẫn chưa tìm ra lối thoát hợp lý.

Ông Nguyễn Xuân Hồng-Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT): Tổ chức lại dịch vụ bảo vệ thực vật

Để ngành chè phát triển bền vững, mấu chốt là phải đảm bảo chất lượng chè, do đó làm thế nào hạn chế tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong chè càng trở nên quan trọng. Hiện nay, một mô hình đang được Bộ NN&PTNT triển khai ở một số địa phương là tổ chức lại dịch vụ bảo vệ thực vật. Theo đó, ở mỗi địa phương tham gia dự án sẽ thành lập các tổ dịch vụ về bảo vệ thực vật. Tổ này có nhiệm vụ giám sát đồng ruộng, phát hiện sâu bệnh và tổ chức phun thuốc trừ sâu khi cần, các loại thuốc phải đảm bảo trong danh mục cho phép. Người nông dân chỉ cần đóng phí để giúp tổ duy trì hoạt động. Tuy mới đi vào hoạt động nhưng mô hình này đã được hầu hết nông dân hưởng ứng và điều quan trọng là chất lượng chè được cải thiện đáng kể.

Bà  Nguyễn Thị Hải, Tổng giám đốc Công ty TNHH Finlay Viet Nam: Cần nâng cao tính chuyên nghiệp trong sản xuất, XK chè

Là khách hàng thường xuyên của chè Việt Nam, chúng tôi nhận thấy, chất lượng chè Việt luôn ở mức độ trung bình và thấp hơn so với các nước trong danh mục XK thế giới. Mẫu xuất hàng thường kém hơn mẫu chào hàng cả về chất lượng và hình thức. Điều này làm ảnh hưởng đến uy tín của chè Việt Nam. Do vậy, khách hàng quốc tế e ngại mua bán trực tiếp với các nhà sản xuất Việt Nam, thay cho việc mua thông qua các công ty thương mại nước ngoài. Chúng tôi cho rằng, để ngành chè Việt trở thành lựa chọn hoàn hảo cho những tập đoàn thương mại và đóng gói đa quốc gia trên thế giới, điều cần làm ngay là nâng cao chất lượng chè bằng cách kiểm soát chất lượng chè búp tươi; kiểm soát sự vệ sinh để nâng cao chất lượng nhà máy. Đồng thời, cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát hệ thống cung cấp thuốc bảo vệ thực vật. Ngoài ra, các nhà sản xuất và XK của Việt Nam cũng cần nâng cao tính chuyên nghiệp trong sản xuất và XK để hiểu được khách hàng thế giới cần gì và mình cần làm gì để đáp ứng nhu cầu này.

Uyển Như (ghi)

Thanh Nguyễn/ Báo Hải Quan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét