Một số vấn đề tái cơ cấu ngành nông nghiệp (kỳ cuối) - TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Breaking

Home Top Ad

CHUYÊN TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Một số vấn đề tái cơ cấu ngành nông nghiệp (kỳ cuối)

VINAGRI News - "Thời điểm này là một dịp và cũng là một cơ hội để chúng ta nhìn nhận lại trách nhiệm của khoa học công nghệ đối với sản xuất nông lâm nghiệp và đời sống nông dân, nhằm đưa khoa học công nghệ trở thành lực lượng trực tiếp sản xuất, có đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển của toàn ngành."

III. Hai giải pháp giải quyết bức xúc lớn

Để thực hiện chương trình tái cơ cấu nông lâm nghiệp của nước ta đòi hỏi một hệ thống giải pháp đồng bộ, phức tạp và khó khăn hơn nhiều so với những giải pháp được thực thi trong 25 năm qua, cần những quyết sách chính trị của cấp lãnh đạo cao nhất ở tầm vĩ mô.

Trước mắt đề nghị tập trung vào hai giải pháp giải quyết bức xúc lớn sau đây:

1. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách và tổ chức sản xuất nông lâm nghiệp

a. Chính sách ruộng đất:

- Về tích tụ ruộng đất: Nền nông nghiệp của nước ta đang là nền nông nghiệp manh mún, phân tán. Kinh tế hộ nông dân vẫn là hình thức tổ chức sản xuất phổ biến, có hiệu quả nhất ở nước ta và nhiều nước trên thế giới, sẽ phát triển theo hướng như sau:

+) Hộ trang trại sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại sẽ được tập trung phát triển đối với những cây con phù hợp, thích hợp ở những vùng có quỹ đất lớn như vùng ĐBSCL có điều kiện cơ giới hóa lúa cao, hộ trang trại phải có quy mô đủ lớn mới đem lại hiệu quả, đảm bảo giá thành sản xuất lúa được giảm thiểu, nâng cao sức cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam, đảm bảo nông dân trồng lúa được làm giàu từ bản thân ngành trồng lúa. Các ngành sản xuất cao su, cà phê cũng dựa vào hộ sản xuất trang trại quy mô lớn.

Bởi vậy, phải đảm bảo điều kiện tích tụ ruộng đất phù hợp yêu cầu sản xuất hàng hóa lớn của những ngành này.

+) Hộ trang trại quy mô nhỏ: Là loại hộ kinh doanh phù hợp vùng đất chật, người đông, đặc biệt, là những cây trồng vật nuôi có nhu cầu sử dụng nhiều lao động. Mức tích tụ ruộng đất ở vùng này tùy loài cây, con để có quy định phù hợp.

Cả hai loại hộ trang trại sản xuất hàng hóa lớn và nhỏ đều có yêu cầu tích tụ ruộng đất với quy mô khác nhau. Như vậy, đất nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản sẽ tập trung vào những chủ ruộng sản xuất kinh doanh giỏi, trong khi đó nhiều hộ nông dân sẽ không còn ruộng đất nghĩa là phải bỏ nghề nông để làm việc ở các ngành công nghiệp, dịch vụ khác, phù hợp quy luật chuyển dịch lao động trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.

Vì vậy, giải pháp tích tụ ruộng đất phải gắn liền với giải pháp tìm việc làm mới cho những người rời bỏ nghề nông, thì mới có tính khả thi, mà hiện nay vẫn chưa tìm kiếm được cách làm được nông dân chấp nhận.

Thủy sản là thế mạnh của nền nông nghiệp VN

+) Hộ sản xuất nông lâm nghiệp siêu nhỏ: Những hộ sản xuất này vẫn tồn tại lâu dài trong nông thôn nước ta, chủ yếu là sản xuất tự cung tự cấp đang vươn tới sản xuất hàng hóa nhỏ. Phải tìm kiếm những đối tượng sản xuất đặc thù phù hợp với điều kiện của các hộ này, chủ yếu là ở vùng sâu, vùng xa để họ vẫn có cơ hội làm giàu trên mảnh đất của mình.

Về chuyển đổi cây trồng trên đất lúa: Hiện nay trong quá trình tái cơ cấu đã xuất hiện nhu cầu chuyển đổi một số diện tích lúa sang nuôi trồng các loại cây con khác có hiệu quả cao hơn và có thị trường tiêu thụ ổn định. Vì vậy, cần có những quy định thông thoáng hơn để nông dân được thực thi quyền lựa chọn đối tượng sản xuất đem lại lợi ích cho chính họ, sớm bãi bỏ những quy định cứng nhắc về sử dụng đất lúa như hiện nay.

b. Chính sách tổ chức sản xuất

Hầu hết các nước phát triển có nền nông nghiệp phát triển cao trên thế giới đều xây dựng trên nền tảng của hộ trang trại quy mô lớn, gắn kết với các tổ chức kinh tế của nông dân, nhằm bảo vệ lợi ích của nông dân trong cơ chế thị trường có cạnh tranh ngày càng gay gắt, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Tổ chức kinh tế hàng đầu của nông dân là hợp tác xã dịch vụ nông lâm nghiệp, do nông dân góp vốn lập ra để làm dịch vụ sản xuất đầu vào và đầu ra cho nông dân mà các tổ chức kinh tế và chính trị xã hội khác không có chức năng và không có điều kiện để thực thi nhiệm vụ này.

Các doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế của những nhà đầu tư, nhằm tìm kiếm lợi nhuận càng nhiều càng tốt không thể làm được vai trò dịch vụ phi lợi nhuận đối với nông dân, mà tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế biến sau thu hoạch và các ngành công nghiệp chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng của nông lâm nghiệp.

Những doanh nghiệp này kết nối với hợp tác xã và kinh tế hộ nông dân bằng các hợp đồng kinh tế, đảm bảo các bên cùng có lợi.

Một loại tổ chức kinh tế khác của nông dân là tổ chức tín dụng nông nghiệp, cũng do nông dân góp vốn lập ra phục vụ lợi ích của nông dân, có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của nông dân với thủ tục đơn giản, sát với điều kiện nông thôn, góp phần chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.

2. Phát triển khoa học công nghệ

Khoa học nông lâm nghiệp của nước ta hiện nay có tỷ suất cống hiến chỉ đạt khoảng 30% giá trị gia tăng của sản xuất nông lâm nghiệp. Trong khi đó, tỷ suất này ở Trung Quốc như sau: Quảng Tây là 40%; Quảng Đông là 60%; Thượng Hải là 70%; ở các nước tiên tiến là 80 – 90%.

Đó là sự yếu kém khó chấp nhận. Với đà phát triển này, nếu tỷ lệ cống hiến của khoa học nông lâm nghiệp chỉ tăng 1%/năm, thì sau 50 mươi năm nữa, Việt Nam mới đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới.

Có quá nhiều vấn đề đang đặt câu hỏi về trách nhiệm của khoa học nông lâm nghiệp trước đòi hỏi bức xúc của sản xuất và đời sống nông dân.

Xin nêu vài thí dụ sau đây:

Trong ngành trồng trọt, có lẽ từ nhiều năm nay chúng ta tập trung quá mức vào phát triển lúa gạo, có phần buông lơi nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, công nghệ đối với các ngành trồng trọt khác.

Chẳng hạn, cây cao su du nhập vào nước ta được 150 năm nay, lại đặt ra việc tiến hành khảo nghiệm trồng cao su ở các tỉnh vùng núi phía Bắc, bằng cách làm áp đặt, đến khi cao su bị chết rét hàng loạt ở nhiều nơi, thì vội vàng đi tìm kiếm giống cao su chịu rét của Trung Quốc.

Điều là cây đặc sản thích hợp vùng đất xấu có khí hậu nhiệt đới của các tỉnh miền Nam nước ta. Hiện nay, năng suất điều đang suy giảm một cách thảm hại dẫn đến phải nhập nguyên liệu khối lượng lớn để chế biến, nhiều nơi nông dân chặt bỏ cây điều làm cho ngành sản xuất này có nguy cơ phá sản.

Cây con làm thuốc là một nguồn tài nguyên lớn của nước ta, đến nay vẫn chưa có tổ chức khoa học nào nghiên cứu đến nơi đến chốn, trong khi trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ NN-PTNT và Bộ Y tế chưa phân định rõ, làm cho sản xuất ngành này trải qua hàng chục năm vẫn dậm chân tại chỗ.

Trong ngành chăn nuôi, cho đến nay chưa tạo ra được giống con gì là thành quả khoa học công nghệ tự thân của Việt Nam. Sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp phần lớn phải nhập khẩu nguyên liệu từ ngô, đậu tương, đến loại nhỏ nhất là thức ăn bổ sung và phụ gia, mà tại sao nước ta không tự sản xuất được.

Trải qua mấy chục năm nghiên cứu vẫn chưa đề xuất được vật nuôi nào sẽ trở thành ngành chủ lực tạo ra bứt phá cho ngành chăn nuôi nước nhà.

Với ngành lâm nghiệp, đến nay vẫn chưa trả lời được câu hỏi muôn thủa của dân là ở vùng đồi núi nước ta trồng cây gì sớm được khai thác đạt doanh thu trên 20 triệu đồng/ha/năm. Với một nước có thế mạnh về phát triển lâm nghiệp nhưng sản xuất gỗ và đồ gỗ vẫn phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài cũng là điều đáng suy ngẫm.

Với ngành thủy sản, các tổ chức nghiên cứu khoa học và các nhà khoa học thủy sản đã có nỗ lực to lớn để nghiên cứu về phát triển thủy sản nhất là nghề nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước mặn trên đất liền và nuôi biển và gần đây đã có một số nghiên cứu thành công về nuôi trồng các loại thủy sản cao cấp trong đó có nghề nuôi cá nước lạnh đang có nhiều hứa hẹn.

Ngành chế biến thủy sản đi đầu trong toàn ngành về áp dụng công nghệ mới để tạo ra giá trị gia tăng lớn, có sức cạnh tranh cao. Hy vọng các nhà khoa học thủy sản tiếp tục phát huy tính năng động, sáng tạo của mình để tìm kiếm cơ hội phát triển một số ngành mới góp phần đưa nước ta trở thành nước có ngành thủy sản mạnh trong khu vực.

Nguyễn Công Tạn/ Báo NNVN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét