Tắc nghẽn đầu ra
Ông Đinh Công Phu, PCT Hội Nông dân xã Ba Trại cho biết: Năm 2012, tổng diện tích trồng chè của cả xã là 439 ha (giảm 8,5 ha so với năm 2011). Tổng sản lượng ước đạt khoảng 3.336,4 tấn chè búp tươi. Đến năm 2013, diện tích trồng chè của xã tiếp tục giảm xuống, chỉ còn khoảng 400 ha. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do một số hộ dân chuyển đổi từ trồng chè sang chăn nuôi.
Năm 2010, Hội Nông dân xã Ba Trại phối hợp với Chi cục Bảo vệ thực vật Hà Nội triển khai mô hình SX chè an toàn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù đã đăng ký thương hiệu, mã vạch và được Sở NN-PTNT Hà Nội cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện SX chè an toàn từ 3 năm trước, thế nhưng đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một đơn vị, doanh nghiệp nào ký kết hợp đồng mua bán chè với người nông dân. Họ vẫn phải tự tìm đầu ra cho sản phẩm của mình thông qua thương lái và bán lẻ ngoài chợ.
Tháng 8/2012 Trung tâm Hỗ trợ nông dân Hà Nội (Hội Nông dân Hà Nội) cũng đến làm việc, giúp đỡ tìm đầu ra cho thương hiệu chè xã Ba Trại nhưng cho đến bây giờ thì gần như chưa có chuyển biến. “Năm ngoái chúng tôi còn phát hiện chè ở Ba Trại được các thương lái mang lên Thái Nguyên dán nhãn mác chè Tân Cương (giả) rồi sau đó chuyển quay trở lại đây tiêu thụ” - ông Phu nói.
Nông dân Ba Trại đang hái búp chè
Theo ông Nguyễn Tiến Dũng, Chi hội trưởng Chi hội Nông dân thôn 3, xã Ba Trại, toàn bộ vùng SX chè sạch - an toàn đều nằm trong địa bàn thôn 3 với diện tích khoảng 70 ha. Toàn thôn có 238 hộ thì 230 hộ trồng chè. Nhưng, có một thực trạng đáng buồn là tỉ lệ hộ gia đình đăng ký nhãn hiệu và mã vạch còn rất thấp (10 hộ). Bởi dù có làm ra sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và đóng bao bì mang nhãn hiệu chè sạch, thì giá cũng không cao hơn so với chè đóng túi ni lông trắng.
Bản thân ông Dũng là người có thâm niên trồng chè. Chất lượng chè của gia đình ông luôn đạt hảo hạng. Mặc dù đã đăng ký nhãn hiệu và mã vạch nhưng tỉ lệ được đóng bao bì khi xuất bán rất thấp, chủ yếu là để giới thiệu sản phẩm của gia đình. Xưởng sơ chế chè búp khô của thôn 3 được trang bị máy hàn đai để phục vụ việc đóng nhãn mác chè sạch - an toàn Ba Trại, thế nhưng, máy móc thường xuyên trong tình trạng “nghỉ ngơi” vì mỗi năm chỉ đóng được khoảng 1 tấn chè.
Chất lượng không đồng đều
Ông Dũng cho biết: Hiện tại đa số nông dân Ba Trại vẫn đang trồng giống chè trung du lá nhỏ, nhưng vì phương pháp nhân giống chủ yếu là ươm hạt nên tình trạng thoái hoá rất phổ biến. Chỉ số ít hộ phát triển một vài giống mới như LĐB1, Phúc Vân Tiên (cho chất lượng tương đối tốt); LĐB2, PH1 (chất lượng không cao nhưng năng suất cao). Tôi đang nghĩ cách nhân giống bằng phương pháp giâm cành để lựa chọn được những cây có chất lượng tốt và đồng đều.
Từ khi chè Ba Trại có nhãn hiệu chính thức, Chi cục BVTV Hà Nội và Trạm BVTV Ba Vì đã mở một số lớp tập huấn hướng dẫn quy trình SX chè an toàn cho bà con, tuy nhiên đa số nông dân vẫn trồng theo kinh nghiệm là chính, dẫn đến năng suất và chất lượng không đồng đều. Trên thực tế, chất lượng chè của các hộ dân ở Ba Trại rất khác nhau, loại rẻ chỉ 50.000 đ/kg, còn loại đắt lên tới 200.000 đ/kg.
Ông Nguyễn Tiến Dũng: So với các vùng chè lân cận thì chất lượng chè Ba Trại thuộc loại ngon nhất, chỉ kém chè đặc sản ở Thái Nguyên một chút thôi. Nhưng để phát triển thương hiệu chè của địa phương thì rất nan giải. Trước tiên những người trồng chè phải liên kết thành một nhóm hộ hoặc một tổ chức hội như mô hình HTX, có người chịu trách nhiệm quản lý mọi khâu trong quy trình SX chế biến và đóng gói. Khi chất lượng chè ổn định, số lượng dồi dào thì mới tìm đến các các doanh nghiệp được.
Anh Đặng Đình Chiến (30 tuổi ở xóm Đô, thôn 3, xã Ba Trại) chia sẻ: “Vì vườn chè nhà tôi được trồng từ năm 1967 nên toàn bộ cây đã bị cỗi, rêu mốc bám đầy thân, búp chè rất bé. Mặt khác, ngày trước các cụ trồng mật độ thưa, không theo hàng lối nên rất phí đất, năng suất giảm đáng kể. Mỗi sào chè chỉ cho thu hoạch khoảng 45 - 50 kg/năm, trừ chi phí chỉ lãi khoảng 5 triệu đồng. Tôi cũng muốn trồng lại cây mới, nhưng lại thiếu vốn”.
Theo nhiều người dân ở thôn 3, thương hiệu chè sạch - an toàn Ba Trại đã có từ lâu, thế nhưng chưa thấy biến chuyển là mấy. Thậm chí so với năm ngoái, năm nay giá chè còn thấp hơn. Sự hỗ trợ, đầu tư của các cơ quan liên ngành rất khiêm tốn, chỉ duy nhất năm 2011, Chi cục BVTV hỗ trợ mỗi sào chè 20 kg phân bón NPK và thuốc BVTV, ngoài ra không còn gì.
Chị Đặng Thị Sang, xóm Đô, thôn 3 thở dài: “Ở đồi chè này hoàn toàn không có hệ thống mương máng hay giếng khoan. Nguồn nước tưới phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Đợt hạn hán cách đây không lâu, vườn chè của nhiều hộ gia đình héo quắt queo vì thiếu nước, không thể nảy búp. Nếu không có trận mưa lớn ngày 1/4 thì chết hết. Muốn chủ động được nguồn nước thì phải đào giếng sâu 20 m và xây bể chứa, mà dân thì làm gì có nhiều tiền”.
Minh Phúc/ Báo Nông nghiệp Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét