Kiểm tra chất lượng chè búp sau khi thu hái tại Nông trường Chè Tâm Châu. Ảnh: Minh Ngọc
Theo số liệu của Sở NN-PTNT, năm 2012, ngành nông nghiệp địa phương sản xuất được 1,54 triệu tấn rau đậu (kế hoạch 2013: 1,6 triệu tấn), 376.771 tấn cà phê nhân (dự kiến năm 2013 trên 391.178 tấn), 201.966 tấn chè búp tươi (dự kiến năm 2013 gần 242.598 tấn) và trên 8.636 tấn hạt điều (năm 2013 dự kiến 8.770 tấn)… Trừ một số nhỏ được tiêu thụ tại chỗ, lượng nông sản này cần và rất cần được chế biến trước khi đưa ra thị trường. Số liệu của Sở NN-PTNT cho thấy, toàn tỉnh hiện có 50 cơ sở chế biến chè, 14 doanh nghiệp chế biến cà phê và 20 doanh nghiệp chế biến rau đang hoạt động. Mặc dù đã có một số doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao công suất chế biến như Công ty Haiyih, Công ty Tâm Châu, Công ty Phương Nam (với cây chè), Công ty Thái Hoà… (với cây cà phê)… nhưng toàn tỉnh chỉ mới chế biến được 45.000 tấn chè thành phẩm (trong đó có 26% được các doanh nghiệp chế biến theo công nghệ cao để xuất khẩu), 60.000 tấn cà phê đánh bóng (sơ chế) cộng với 380 tấn cà phê bột (tinh chế), 1.850 tấn hạt điều và khoảng 200.000 tấn rau cấp đông thành phẩm mỗi năm. Để thúc đẩy chăn nuôi bò sữa phát triển, được sự giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi của UBND tỉnh và các ngành chức năng, gần đây, Công ty cổ phần Sữa Đà Lạt (Dalatmilk) đã đầu tư tại huyện Đơn Dương một nhà máy chế biến sữa bò thanh trùng có công suất 40.000 tấn/năm; nhưng hiện tại lượng sữa bò tươi do nông dân và các doanh nghiệp sản xuất trong tỉnh chỉ mới đáp ứng được 20% công suất chế biến này của nhà máy này (năm 2012, sản lượng sữa bò tươi của tỉnh đạt 14.410 tấn, năm nay, kế hoạch sản xuất khoảng 16.535 tấn). Thực tế này cho thấy, ngoài sữa bò, sản lượng các loại nông sản khác của tỉnh đều vượt xa năng lực chế biến của các doanh nghiệp, của địa phương.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới việc lượng nông sản được chế biến đạt không cao so với lượng nông sản nguyên liệu là sản xuất chưa thực sự gắn với chế biến. Dẫn tới tình trạng này ngoài các nguyên nhân có tính lịch sử còn do sự chồng chéo về nhiệm vụ quản lý nhà nước trên lĩnh vực chế biến nông sản của địa phương. Hiện tại khoảng 60% diện tích cây dâu tằm của tỉnh được trồng ở Lâm Hà, giữ ổn định diện tích tại Đức Trọng và đang phát triển mạnh ở Đam Rông nhưng hầu hết các cơ sở chế biến tơ và dệt lụa tơ tằm lại đóng chân ở Bảo Lộc; phần lớn cơ sở chế biến chè và cà phê đóng tại Bảo Lộc và Di Linh, trong khi vùng chè, cà phê nguyên liệu tập trung lại đang mở rộng tại Lâm Hà và Bảo Lâm… Có một vấn đề mà ai cũng nhận ra là hiện nay Lâm Đồng là một trong rất ít địa phương của cả nước không phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực chế biến nông sản thuộc Sở NN-PTNT hay Sở Công thương (trong khi quản lý nhà nước về chế biến lâm sản thì lại phân rõ cho ngành nông nghiệp). Thực tế này đã dẫn tới việc trong khi Sở NN-PTNT triển khai “Quy hoạch vùng sản xuất nông sản nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến” và Sở Công thương thì ngược lại đang thực hiện “Quy hoạch công nghiệp chế biến nông sản gắn với vùng sản xuất nguyên liệu”. Do các quy hoạch này “không ăn khớp với nhau” nên ngành nông nghiệp thì cứ phát triển vùng chè, cà phê, rau… tập trung dựa vào phát huy các ưu thế cạnh tranh về khí hậu, đất đai, tập quán canh tác… của từng vùng; còn ngành công nghiệp thì vẫn cứ duy trì và phát triển các cơ sở chế biến nông sản ở những địa phương truyền thống. Chính vì bất cập này, chế biến nông sản của địa phương chưa thực sự gắn với vùng sản xuất nguyên liệu và ngược lại, giá trị nông sản hàng hóa thấp, lượng nông sản xuất khẩu chưa cao (mặc dù đang chiếm trên 85% giá trị xuất khẩu hàng năm của tỉnh). Đây là những bất cập cần sớm được tháo gỡ.
Xuân Đức/ Báo Lâm Đồng

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét