Thưa ông, phần lớn người chăn nuôi heo đang lỗ vì giá bán dưới giá thành. Nghịch lý ở chỗ các số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ tăng đàn từ gia cầm cho đến gia súc đều giảm, lẽ ra giá bán phải tăng, nhưng thực tế ngược lại. Có nghĩa đây là điều rất bất thường. Vì sao vậy?
Đúng là thống kê cho thấy tốc độ tăng đàn gia súc, gia cầm trong quý I giảm đáng kể. Cụ thể đàn lợn, gia cầm giảm 2-2,5%; đàn trâu bò giảm 3-4%. Thông thường tốc độ tăng đàn chậm giá bán phải tăng, đằng này ngược lại giá bán lại giảm, điều đó cho thấy sức mua thực phẩm của thị trường trong nước đang không tương xứng với sức sản xuất của ngành chăn nuôi. Hiện nay giá các sản phẩm chăn nuôi của chúng ta đang thấp hơn so với các nước trong khu vực khá nhiều. Cụ thể, giá lợn hơi bình quân (quý I/2013) chỉ 40.000-41.000 đ/kg (trong khi Thái Lan 43.000 đ/kg; TQ 46.000 đ/kg); trứng gà công nghiệp bình quân chỉ 16.000 đ/chục (Thái Lan 19.000 đ/chục; Philippine 20.000 đ/chục)… Sức mua yếu dẫn đến, lợn đến tuổi xuất chuồng không bán được, bị quá lứa. Hệ quả tuy số đầu con giảm nhưng vì lợn quá lứa nhiều nên tổng sản lượng thịt lại không giảm hoặc giảm không đáng kể. Đó là các yếu tố dẫn đến giá lợn hơi giảm sâu và lâu như vậy.
Giá bán lên xuống do thị trường điều tiết. Về tổng thể lâu dài vẫn cần một sự tái đàn ổn định, bền vững. Cần giải pháp nào thưa ông?
Trước hết cần hỗ trợ tín dụng cho chăn nuôi. Chúng tôi kiến nghị các địa phương chỉ đạo triệt để việc thực hiện “gói tín dụng” hỗ trợ phát triển chăn nuôi và thủy sản tại Văn bản 1149/TTg-KTN ngày 8/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ hai, phải tăng cường kiểm soát dịch bệnh, đồng thời có biện pháp quản lý chặt không để gia súc, gia cầm, nhất là gà thải loại, gà giống không rõ nguồn gốc nhập lậu gây bất ổn cho thị trường thực phẩm và sản xuất chăn nuôi trong nước. Thứ ba là có giải pháp khai thông thị trường trong nước và khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi. Thứ tư là tiết kiệm, giảm chi phí đầu vào của sản xuất chăn nuôi, mà trước tiên giảm chi phí thức ăn chăn nuôi. Khuyến khích sử dụng thức ăn chế biến bằng nguyên liệu tại chỗ, các cơ sở chăn nuôi hạn chế sử dụng thức ăn công nghiệp hỗn hợp hoàn chỉnh sang sử dụng thức ăn đậm đặc phối trộn với các nguồn nguyên liệu có sẵn trong dân (ngô, cám, khoai, sắn…), điều này có thể giảm giá thành TĂCN xuống khoảng 10-12% và giải pháp thứ năm là tăng cường các biện pháp kiểm soát chất lượng và giá con giống, TĂCN, không để xảy ra tình trạng tăng giá giống và giá TĂCN trong thời điểm hiện nay. Vấn đề này, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát đã có chỉ đạo Cục Chăn nuôi phối hợp với Cục Quản lý Giá (Bộ Tài chính) khảo sát cơ cấu giá thành, những yếu tố chi phối đến giá của một số doanh nghiệp SX KD TĂCN, từ đó đề xuất giải pháp kiểm soát hạ giá TĂCN, giảm giá thành sản xuất.
Một trong những bất cập lớn nhất của chăn nuôi nước ta là giá bán TĂCN quá cao, thường cao hơn 10-15% so với Thái Lan và một số vùng của Trung Quốc. Vấn đề này, DN và các nhà nghiên cứu chính sách đã từng nhiều lần đề cập. Bây giờ, chúng ta lại bàn lần nữa, ông kiến giải thế nào?
Đúng là giá TĂCN của ta khá cao, ví dụ thức ăn công nghiệp cho lợn choai ở VN giá từ 13.000 – 14.000 đ/kg, trong khi cũng giá loại thức ăn này ở Thái Lan dưới 12.000 đ/kg. Biện pháp giảm giá TĂCN chúng ta phải dần chủ động nguồn nguyên liệu, hạn chế lệ thuộc vào các loại nguyên liệu nhập khẩu mà trong nước có thể sản xuất được, như: ngô, lúa mỳ, bột cá và thức ăn bổ sung… Một vấn đề có thể làm được ngay là kiến nghị Nhà nước bỏ thuế VAT (5%) trong kinh doanh TĂCN (hiện không có nước nào trong khu vực áp dụng chính sách thuế này).
Còn về lâu dài, ngành chăn nuôi định hướng thế nào?
Cần sớm tái cơ cấu lại sản xuất ngành chăn nuôi theo hướng khuyến khích phát triển những loại vật nuôi, loại hình sản xuất chăn nuôi mà Việt Nam có thế mạnh, như: gà thả vườn, vịt, bò sữa và lợn…; khẩn trương hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi nông hộ theo hướng an toàn và bền vững, tức là hỗ trợ phát triển các hộ chăn nuôi chuyên nghiệp, chứ không phải các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, tận dụng theo kiểu "đắt nuôi rẻ bỏ”. Mặt khác phải sửa đổi Nghị định 61 về khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, trong đó có chính sách hỗ trợ hình thức chăn nuôi trang trại quy mô lớn để tạo đà và sức cạnh tranh cho các sản phẩm chăn nuôi không chỉ đáp ứng cho tiêu dùng trong nước, hạn chế nhập khẩu mà còn hướng tới xuất khẩu.
Riêng vấn đề thị trường phải luôn được coi trọng, các cơ quan quản lý phải tăng cường hơn nữa cho công tác dự báo cung cầu sản phẩm chăn nuôi không chỉ trong nước mà cả thị trường các nước cùng khu vực. Tuy nhiên các doanh nghiệp và người chăn nuôi, hơn ai hết phải chủ động nghiên cứu thị trường và xác định được kênh tiêu thụ cho các sản phẩm của mình làm ra.
Hiện nay chăn nuôi đang khó khăn, nhưng tôi vẫn tin rằng ngành chăn nuôi sẽ có những điều chỉnh, sắp xếp lại theo một trật tự mới phù hợp với nền kinh tế thị trường, phát huy tiềm năng, thế mạnh để phát triển.
Xin cảm ơn ông!
Trần Cao/ Báo NNVN thực hiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét