Nuôi tằm chỉ để lấy nhộng
Làng Vọng Nguyệt, xã Tam Giang (Yên Phong - Bắc Ninh) không chỉ nổi tiếng với phòng tuyến sông Cầu thời nhà Lý chống giặc Tống mà còn lừng danh với sản phẩm tơ lụa truyền thống, thế nhưng khi đến đây, chúng tôi vô cùng thất vọng vì thấy những chiếc máy quay tơ bị xếp gọn vào một góc, nơi thì phủ bạt, nơi để mặc mạng nhện giăng kín...
Anh Ngô Văn Ngọ, một người dân ở đây cho biết, mỗi lứa nhà anh nuôi 6 nong tằm, suôn sẻ thì mỗi nong cho 4kg kén, mỗi lứa nuôi hơn 30 ngày là thu hoạch. Nếu để giống thì đợi ngài đẻ trứng, sau 10 ngày trứng sẽ nở ra tằm con. Như vậy, thời gian nuôi mỗi lứa tằm hết 41 ngày.
Theo anh Ngọ, giờ đây người nuôi tằm thường không bán kén cho những người ươm tơ nữa mà bán cho thương lái, bởi giá nhộng lên tới 140.000 đồng/kg, trong khi để ươm tơ thì họ chỉ mua với giá 50.000 đồng/kg. Cứ 1kg kén tằm thì thu được 7 lạng nhộng, phần vỏ kén bán cho thương lái Trung Quốc với giá 45.000 đồng/kg.
“Nếu quay tơ, 1kg kén được 1,2 lạng tơ vàng, bán với giá 350.000 đồng/kg, lợi nhuận vẫn thua xa bán nhộng. Bây giờ, người tiêu dùng chỉ ưa thích nhộng tươi nên giá bán cao gấp 2 lần nhộng chết, đó chính là lý do khiến người nuôi tằm vàng chỉ thích bán nhộng chứ không muốn bán tơ nữa”, anh Ngọ nói.
Ông Ngô Văn Vĩnh, người đang nuôi 12 - 13 nong tằm cho biết: Năm ngoái, nhà tôi nuôi lứa nào hỏng lứa ấy, lỗ 10 triệu đồng tiền tằm giống, chưa kể công trồng dâu, hái dâu, chăm sóc tằm.
“Nghề chăn tằm giờ đây luôn phải đối mặt với rủi ro dịch bệnh. Có nhiều nguyên nhân, trước hết là do giống tằm vàng đã thoái hóa, phần nữa là do các khu công nghiệp mọc lên nhan nhản, xả ra môi trường nhiều chất thải, trong khi con tằm chỉ phát triển tốt trong điều kiện không khí trong lành, thức ăn không bị ô nhiễm”, ông Vĩnh chia sẻ.
Trao đổi với chúng tôi, ông Ngô Văn Quây, Trưởng thôn Vọng Nguyệt cho biết: “Từ năm 2008 trở về trước, thôn có khoảng 400/850 hộ làm nghề chăn tằm ươm tơ, nhưng nay chỉ còn chưa tới 30 hộ theo nghề”.
Máy quay tơ “đắp chiếu”
Là cơ sở ươm tơ, kinh doanh tơ lớn và duy nhất còn lại của làng Vọng Nguyệt, gia đình ông Ngô Vi Hành vẫn đang cố bám trụ với nghề. Với 2 dàn máy quay tơ công nghiệp, mỗi ngày gia đình ông làm ra khoảng 300kg tơ, kén các loại, tạo việc làm thường xuyên cho 7-10 lao động. Trung bình mỗi tháng, cơ sở này thu mua 10 tấn kén, tổng doanh thu từ việc bán tơ đạt 1,5 tỷ đồng.
Ông Hành cho biết, trước đây, tơ được sản xuất từ loại kén vàng truyền thống nên gia đình ông chỉ việc thu mua kén từ các hộ trong làng, bây giờ chuyển sang nhập kén trắng thì ông phải đi thu mua tận Vĩnh Phúc, Yên Bái…, bởi các hộ trong làng vẫn nuôi tằm kén vàng cổ truyền. Còn tằm cho kén trắng là giống tằm lai, xuất xứ từ Trung Quốc, ở Việt Nam hiện chưa sản xuất được giống tằm này.
Giờ đây, cơ sở của ông Hành chỉ ươm loại tơ kén trắng, xuất bán sang Trung Quốc với giá 630.000 - 650.000 đồng/kg. Loại tơ này có nhiều ưu điểm, sợi tơ dài gấp 3 lần so với tơ vàng, độ bền cao, lại không phải tẩy màu như tơ vàng.
Trước những điều tai nghe mắt thấy ở làng nghề chăn tằm, ươm tơ Vọng Nguyệt, tôi chợt nhận ra một nghịch lý, bởi cách đây vài tháng, đến thăm Vạn Phúc (Hà Đông - Hà Nội) và được ông Nguyễn Văn Sinh, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề lụa Vạn Phúc cho biết, trong vòng 2 năm qua, đã có 30% số hộ trong làng phải bỏ nghề dệt lụa vì giá nguyên liệu tơ tằm liên tục phi mã, trong khi giá bán không tăng.
Hiện, người dệt lụa ở Vạn Phúc không thể mua được tơ tằm sản xuất trong nước mà phải nhập hoàn toàn nguyên liệu từ Trung Quốc với giá 1,3 - 1,7 triệu đồng/kg tơ, cao gấp 2 lần so với năm 2010.
Khi tôi hỏi vì sao các cơ sở không còn bán tơ cho Vạn Phúc mà lại xuất sang Trung Quốc với giá chỉ 650.000 đồng/kg thì ông Hành cho biết, máy quay tơ của ta còn lạc hậu nên sản phẩm tơ ươm ra chất lượng thấp, trong khi phía Trung Quốc thì liên tục đầu tư, đổi mới công nghệ.
“Sản phẩm của mình làm ra được phía Trung Quốc thu mua hết với giá rẻ, họ đem về ngâm hóa chất để loại bỏ tạp chất và cho vào máy chuốt để tơ mịn hơn. Sản phẩm tơ sau khi đã được tân trang, họ đưa quay trở lại Việt Nam bán cho các làng nghề dệt lụa với giá cao gấp 2-3 lần”, ông Hành tiết lộ.
Theo ông Hành, để vực dậy ngành nuôi tằm và sản xuất tơ, Nhà nước cần phải thúc đẩy và phục tráng các giống tằm truyền thống, nghiên cứu ra những giống tằm có sức đề kháng bệnh tật cao hơn, đồng thời phải có quy hoạch giữ lại và phát triển các vùng trồng dâu, cũng như thúc đẩy, đổi mới công nghệ, máy móc ươm tơ để cho ra sản phẩm tơ chất lượng cao hơn.
Chu Khôi/ Báo Kinh tế nông thôn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét