» » VEF: Nguồn lực từ nông nghiệp bị bòn rút


Tài liệu tham khảo khá phong phú trong Báo cáo Phát triển Thế giới năm 1994 và 2009 nhấn mạnh tới đóng góp cơ bản của cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp vào tăng trưởng và phát triển, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Những cải thiện về chất lượng và khả năng tiếp cận dịch vụ hạ tầng làm giảm thiểu chi phí trong việc kết nối người sản xuất với người tiêu dùng, cung cấp dịch vụ xã hội và cảnh quan cho đại bộ phận dân cư. Giảm chi phí kết nối thúc đẩy  thương mại, tài chính và mạng lưới phân phối. Điều này giúp mở rộng cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh, tạo ra thu nhập và của cải.

Đất đai là tài sản có giá trị và là thành phần cơ bản của của cải quốc gia. Giá trị thị trường của đất tăng lên chóng mặt trong những thập kỷ gần đây. Như đã đề cập, giá trị của đất phụ thuộc vào năng lực sản xuất của đất (mà người nông dân khai thác được), số lượng và chất lượng của hệ thống cơ sở hạ tầng, các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp. Chính phủ đóng vai trò chính trong việc hỗ trợ đầu tư thêm vào các hoạt động nông nghiệp.

Những Báo cáo trên giải thích tại sao địa điểm (được định nghĩa là một vị trí cụ thể trong không gian địa lý) lại có giá trị và những lực lượng kinh tế, xã hội làm thay đổi các giá trị đó thay đổi như thế nào qua thời gian. Cụ thể, những báo cáo trên tập trung vào "nguồn cung kinh tế của đất đai" trong phát triển và tăng trưởng kinh tế. Thông qua đó, các báo cáo đã xác định bằng cách nào mà đầu tư công mở rộng cơ sở hạ tầng và cải thiện cảnh quan nông thôn lại nâng cao giá trị của đất cho người nông dân và cộng đồng nông thôn, đồng thời tăng thêm của cải và phúc lợi cho họ.

Chủ đề của Báo cáo Phát triển Thế giới 2009, "Tái định dạng địa kinh tế", rất phù hợp cho chương trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của Chính phủ Việt Nam. Báo cáo chỉ rõ 3 yếu tố xác định khuôn mẫu không gian của sự tăng trưởng và phát triển, đó là: mật độ kinh tế, khoảng cách (về mặt kinh tế), và sự phân cách (về mặt kinh tế và xã hội).

Có thể rút ra nhiều gợi ý khi xem xét hình thái tăng trưởng và phát triển dựa trên các khía cạnh về mật độ, khoảng cách và sự phân hóa. Trước hết, phát triển kinh tế tự nó vốn đã không đồng điệu về không gian. Một số địa điểm thường có lợi thế hơn như chợ, khu trung chuyển, cảng biển, sân bay, vùng nguyên liệu, trung tâm hành chính.

Thứ hai, "thị trường xác định khung cảnh kinh tế". Thị trường luôn luôn cần thời gian để phát triển và chín muồi, nhưng một khi đã hình thành thì nó có lợi thế từ "phát triển đô thị, sự linh động của nguồn nhân lực và giao thương mạnh mẽ..."

Thứ ba, "...nhân lực tập trung tới nơi đang thừa chứ không phải nơi thiếu..." Đây cũng là hậu quả của hiệu ứng hội tụ. Tri thức và kỹ năng của một người có giá trị hơn ở nơi có nhiều người có kỹ năng và hiểu biết tương tự.

Thứ tư, giảm chi phí vận tải sẽ nâng cao lợi ích của việc chuyên môn hóa và mở rộng quy mô sản xuất. Những lợi ích này thúc đẩy thương mại và trao đổi giữa các nước vùng (các quốc gia) láng giềng hơn là giữa các vùng (các nước) cách xa nhau.

Báo cáo Phát triển thế giới 2009 có khá nhiều gợi ý cho chính sách. Khi hoạt động kinh tế có xu hướng tập trung theo vùng địa lý (do hiệu ứng tập trung, hiệu ứng tràn của tri thức và kỹ năng, và tính kinh tế theo quy mô), chính sách phát triển quốc gia hiệu quả đòi hỏi Chính phủ phải tạo ra nguồn lực ở những vùng có mật độ kinh tế cao và sử dụng chúng để thúc đẩy sự phát triển (tăng phúc lợi) ở những vùng có mật độ kinh tế thấp. Hướng tiếp cận này cần được hậu thuẫn trợ bởi "các thể chế mù không gian" giúp tránh sự thiên lệch giữa các vùng hoặc các địa điểm; việc thúc đẩy đầu tư mạng lưới không gian giúp gắn kết các vùng, các quận; và thiết lập các can thiệp theo mục tiêu không gian để khuyến khích phát triển về xã hội và con người trên toàn quốc.

Một số xu thế nêu trên đang trên đà triển khai tốt ở Việt Nam. Một số địa điểm có mật độ kinh tế cao như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Vũng Tàu và Đà Nẵng. Những thành phố khác mặc dù cũng phát triển nhưng lại có mật độ kinh tế thấp hơn nhiều. Một số nguồn thu từ các cực tăng trưởng đã được Chính phủ sử dụng để thúc đẩy phát triển một cách rộng rãi hơn, ví dụ như mở rộng cơ sở hạ tầng, cụ thể là điện và đường xá, tăng cường các dịch vụ xã hội như y tế và giáo dục.

Xu thế thứ ba là liên kết thương mại mạnh mẽ hơn trong (nội bộ) khu vực châu Á. Chi phí trên một đơn vị vận chuyển đã giảm do tăng khối lượng hàng hóa thông thương và việc dỡ bỏ các rào cản thương mại. Xu hướng thứ tư là các đô thị tiếp tục thu hút rất nhiều lao động nông thôn. Như đã đề cập từ trước, đây chủ yếu là những lao động trẻ, có trình độ.

Tuy nhiên, điểm ngược lại với kết luận trong Báo cáo của Ngân hàng thế giới là đầu tư công của Việt Nam vào khu vực nông thôn đang giảm, không tương xứng với tỷ lệ dân cư nông thôn trong tổng dân số (72% năm 2008)105 và đóng góp của nông nghiệp vào GDP (18% năm 2008) Ví dụ, năm 2005 đầu tư công cho khu vực nông thôn chỉ chiếm 7% tổng đầu tư. Số liệu của Quốc Hội cho thấy giai đoạn 2000-2005 chỉ có 9% ngân sách nhà nước về "đầu tư cơ bản" được dành cho nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nguồn đầu tư từ nước ngoài vào nông nghiệp cũng rất hạn chế (chỉ 10% tổng đầu tư nước ngoài) càng làm trầm trọng thêm sự bất cân đối này.

Chênh lệch giữa đầu tư nông thôn - thành thị có tác dụng tiêu cực. Nó hạn chế năng suất nông nghiệp, giảm những cơ hội để nông dân và cư dân nông thôn tạo ra thu nhập và của cải ngay tại địa phương, làm nghiêm trọng thêm vấn đề đói nghèo, giảm tiềm năng phát triển đô thị, công nghiệp. Điều này cũng đi ngược lại với mô hình đầu tư tại những quốc gia có tăng trưởng cao. Các đô thị đang đông đúc và tắc nghẽn do dòng người di cư từ nông thôn ra làm tăng chi phí cho phát triển đô thị.

Do suy giảm nguồn lực cho các khu vực khác, tăng trưởng nông nghiệp đang mất đi sự năng động. Từ 1990 đến 2000, sản lượng nông nghiệp tăng trung bình 5.9%/năm trong khi từ 2000-2008 tăng trưởng chỉ còn 4.2%/năm. Căn cứ tiêu chuẩn "hình thái phát triển mẫu" thì tỷ lệ tăng trưởng này thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng của những ngành kinh tế chính khác và của toàn bộ nền  kinh tế nói chung. Sự suy giảm tốc độ tăng trưởng đột ngột này thật đáng ngạc nhiên khi Việt Nam còn cần làm nhiều việc trong chuyển đổi cơ cấu và còn một bộ phận lớn dân chúng còn dựa và tăng trưởng mạnn mẽ của nông nghiệp để bước lên "con đường thoát nghèo."

Kinh nghiệm quốc tế có thể làm cho mối lo ngại này tăng thêm. Bằng chứng cho thấy (chủ yếu ở Ấn Độ, Trung Quốc và Indonesia) một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để tăng phúc lợi cho vùng nông thôn và giảm nghèo là mở rộng cơ sở hạ tầng nông thôn. Điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn và sau đó là chi phí cho vận hành và bảo dưỡng.

Bòn rút nguồn lực từ nông nghiệp là hậu quả của chiến lược phát triển với tầm nhìn ngắn. Phát triển đô thị và công nghiệp đang được thúc đẩy đi trước sự phát triển của nông thôn. Để có được sự phát triển bền vững về lâu dài, cả hai khu vực đều phải phát triển nhanh. Tăng trưởng nông nghiệp cần phải được duy trì mạnh mẽ để sự phân bố lao động giữa các khu vực đi theo hướng tự nguyện chứ không phải do bị ép buộc vì nghèo.

Vì chính sách công là những gì mà các nhà nước làm chứ không phải là những gì họ nói có nhiều bằng chứng cho thấy có sự bỏ rơi đối với phát triển ngành nông nghiệp.

Có hai điểm nổi bật để chứng minh. Thứ nhất là việc bất cân đối trong phân phối đầu tư công đã nói ở trên. Thứ hai là vai trò nổi trội của các tổ chức quốc tế trong việc tài trợ cho các hạng mục thiết yếu của nông nghiệp và phát triển nông thôn. Có thể lấy dẫn chứng từ "Kế hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn năm 2007" của Bộ NN & PTNT,115 với dự toán là 4.056 tỷ đồng trong đó tiền viện trợ nước ngoài chiếm 1.869 tỷ đồng (46%). Tỷ lệ này luôn tăng và sẽ còn tiếp tục tăng lên.

Tại Hội nghị Nhóm tư vấn tại Hà Nội, tháng 11/2009, các nhà tài trợ đã cam kết hỗ trợ 2,25 tỷ đô la cho ngành nông nghiệp từ 2010 tới 2015. Không có lĩnh vực kinh tế nào của Việt Nam lại phụ thuộc nặng nề vào viện trợ nước ngoài như nông nghiệp. Chính phủ có thể thay đổi điều này thông qua cân đối lại các mục tiêu đầu tư của mình.

Mặc dù đầu tư cơ bản vào hệ thống giao thông, thủy lợi, kho bãi cho vật tư đầu vào và cho sản phẩm, cơ sở chế biến, thông tin liên lạc, y tế vào giáo dục sẽ giúp tăng lợi nhuận ròng của sản xuất nông nghiệp, những lĩnh vực khác cũng cần nhận được hỗ trợ từ đầu tư công.

Một trong các lĩnh vực này là các nghiên cứu nông nghiệp có tính ứng dụng. Có rất nhiều công nghệ và kỹ thuật mới đang cần được nghiên cứu và thử nghiệm để xác định khả năng áp dụng vào điều kiện của Việt Nam. Chính phủ có thể tận dụng hợp tác công - tư để cung cấp dịch vụ này. Cách tiếp cận này sẽ giúp cho nông dân nâng cấp giống cây trồng vật nuôi và kỹ thuật nông nghiệp, và làm cho khu vực tư nhân quan tâm hơn tới sự thịnh vượng của khu vực nông nghiệp. Điều đó sẽ giúp tăng giá trị đất nông nghiệp và tăng thu nhập, phúc lợi cho nông dân, đặc biệt là phụ nữ vùng nông thôn.

Mặc dù đã có một số tiến bộ trong KHCN nông nghiệp, đặc biệt là nỗ lực nâng cấp đội ngũ và kết nối học giả Việt Nam với các đồng nghiệp quốc tế, nhưng nghiên cứu và phát triển, cũng như các lĩnh vực nghiên cứu khoa học khác, không được quan tâm đúng mức đặc biệt là khi so sách với tiêu chuẩn quốc tế.

Tăng đầu tư để cải thiện cơ sở hạ tầng và các dịch vụ khác cho nông nghiệp đòi hỏi phải có tài chính. Phần lớn cái giá phải trả cho việc phát triển các khu công nghiệp là do những người nông dân mất đất gánh chịu. Họ chỉ nhận được một khoản đền bù rất thấp. Một phần "địa tô chuyển đổi" đã được chuyển cho các nhà đầu tư khi họ xây dựng cơ sở hạ tầng từ đất nông nghiệp chuyển đổi để cho thuê lại. Cần thay đổi lại cơ chế này để tăng giá trị của các loại đất nông nghiệp và kích thích nông dân đầu tư để tăng năng suất nông nghiệp.


Hồ Đăng Hòa, Lê Thị Quỳnh Trâm, Phạm Duy Nghĩa và Malcolm F. McPherson

Về Tin tức nông nghiệp

Chuyên tin tức nông nghiệp, chỉ tin tức nông nghiệp. tintucnongnghiep.com là một blog chia sẻ tin tức nông nghiệp Việt Nam và thế giới theo tiêu chí kết nối, chia sẻ và phi lợi nhuận.
«
Trước
Bài đăng Mới hơn
»
Sau
Bài đăng Cũ hơn

Không có nhận xét nào:

Chia sẻ của bạn về bài viết này: