Nông nghiệp, những “bờ ruộng” chờ phá bỏ. (Bài 4) - TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Breaking

Home Top Ad

CHUYÊN TIN TỨC NÔNG NGHIỆP

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

Nông nghiệp, những “bờ ruộng” chờ phá bỏ. (Bài 4)

Bài 4: Những thử nghiệm sản xuất quy mô lớn

Nhiều doanh nghiệp đã gắn bó với nông dân để xây dựng những “cánh đồng mẫu”, bước đầu có hiệu quả. Nhưng vẫn còn quá sớm để cho rằng mô hình “hợp tác xã kiểu mới” này có thể phát triển đại trà.

Lấy chiếc dây thừng bện tròn, ông Nguyễn Văn He xỏ hai đầu vào chiếc chậu nhựa, đổ đầy phân urea, rồi nhấc bổng cái chậu để phía trước bụng. Tay trái giữ chậu phân, tay phải bốc từng nắm phân rải lên ruộng... Ông He nói: “Lúa hè thu đã được hơn tháng tuổi, đây là lần hai bón phân theo hướng dẫn của các kỹ sư nông nghiệp (Farmer’s Friend – FF) của công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS). Gia đình tui đang liên kết sản xuất lúa cho công ty”.

Cánh đồng mẫu ở An Giang đang lan rộng

Vẫn còn quá sớm để cho rằng mô hình “cánh đồng mẫu” này có thể phát triển đại trà. 

Ông He chọn thời điểm lúa ngả màu vàng mới bón phân, cho thấy kỹ thuật sản xuất đã thay đổi. Ông nói: “Trước đây làm lúa bằng kinh nghiệm, cứ nhăm nhăm thấy lúa có bệnh mua thuốc về xịt, lúa còn xanh tốt cũng mua phân bón thêm”.

Ngoài ông He, ở xã Vĩnh Bình (Châu Thành, An Giang) có hàng ngàn hộ gia đình khác ký hợp đồng sản xuất, bán lúa cho công ty AGPPS. Ông Dương Văn Hoàng đang sở hữu gần 4ha lúa cho biết, gia đình ông làm ăn với công ty đã được bốn vụ, được cấp thuốc, phân bón không tính lãi. Cuối vụ, công ty cho máy vào gặt, chở lúa tươi về sấy, sau đó nông dân đến cân, giá cao bán lại công ty theo giá thị trường, còn giá thấp được gửi tại kho của công ty trong vòng 30 ngày không tính phí. Còn bà Lê Thị Tuyết Vân hồ hởi: “Từ ngày làm ăn với nhà máy không phải lo vốn đầu tư nữa. Vật tư cũng mua được giá gốc, chất lượng, đầu ra ổn định, không bị thương lái ép như trước đây”.

Đây là vụ thứ tư nông dân trở thành đối tác làm ăn với công ty. Từ quý 3/2010, AGPPS triển khai dự án đầu tư, thu mua và chế biến lúa gạo quy mô 1.200ha tại xã Vĩnh Bình với cụm nhà máy có công suất chế biến 100.000 tấn lúa/năm, cùng kho chứa 30.000 tấn để thu mua lúa cho cả xã này. Đây là dự án hướng đến sản xuất quy mô lớn (còn gọi là cánh đồng mẫu) bằng cách ký hợp đồng với nông dân, tổ chức quy hoạch sản xuất theo chuỗi, có kiểm soát nhằm thu về hạt lúa chất lượng, đảm bảo gạo tốt xuất khẩu. Công ty cũng sẽ cung cấp giống xác nhận, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thu mua lúa, phơi sấy cho nông dân. Về phía nông dân, được tiếp cận vật tư giá gốc, sản xuất có hướng dẫn… sẽ giảm tối đa giá thành đầu vào. Canh tác theo quy trình quản lý dịch hại sẽ giúp giá thành sản xuất chỉ còn 3.000 đồng/kg lúa so với trước đây từ 3.200 – 3.500 đồng/kg. Trừ các khoản chi phí, nông dân lãi bình quân từ 25 – 34 triệu đồng/ha. Ông He rất phấn chấn với cách làm này.

Khâu phơi sấy, trữ lúa là vấn đề nan giải nhất đã được giải quyết khi công ty ra tay ký hợp đồng bao tiêu. Nhiều nông dân cho biết, trước đây sợ nhất là trời mưa, không có nơi trữ lúa nên khi thu hoạch, bất luận giá nào cũng phải bán.

Cùng với nhà máy tại Vĩnh Bình, quý 3/2011, AGPPS khởi công xây dựng ba nhà máy chế biến tại Thoại Sơn (An Giang), Tân Hồng (Đồng Tháp) và Vĩnh Hưng (Long An) với công suất mỗi nhà máy 200.000 tấn lúa/năm. Đến năm 2020, AGPPS sẽ đầu tư sáu nhà máy chế biến với tổng công suất 1 triệu tấn lúa/năm, đầu tư 100.000ha diện tích vùng nguyên liệu phục vụ cho nhà máy.

Tây Nguyên đang thử nghiệm

Ông Nguyễn Văn Sinh, phó giám đốc sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Dăk Lăk cho biết, tỉnh đang thí nghiệm mô hình sản xuất theo hướng doanh nghiệp và nông dân cùng hợp tác. Theo ông Sinh, năm 2011, Dăk Lăk đã thành lập ba liên minh càphê: liên minh càphê 2-9 giữa công ty càphê 2-9 và nông dân vùng Cư Ebua (thành phố Buôn Ma Thuột), liên minh càphê Dăk Man giữa công ty càphê Dăk Man và vùng càphê Hoà Đông (Krông Păk) – EaTu (Buôn Ma Thuột), liên minh càphê Ea H’Leo vớ i vùng Ea Tân (Krông Năng).

“Doanh nghiệp và nông dân những vùng nguyên liệu là đối tác với nhau trong những liên minh để sản xuất càphê chất lượng cao. Doanh nghiệp chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ một phần phân bón và thu mua sản phẩm của nông dân tham gia liên minh”, ông Sinh nói. Theo ông Sinh, doanh nghiệp tham gia mô hình này có hai điểm lợi: càphê đạt tiêu chuẩn chất lượng cao và ổn định lượng hàng để xuất khẩu. “Để đánh giá hiệu quả của những liên minh này, phải chờ ít nhất vài vụ”, ông Sinh nói. Được biết, đầu năm 2012, Dăk Lăk đã có quyết định thành lập mô hình hợp tác xã sản xuất càphê kiểu mới tại hai xã Ea Quang và Ea Rong (Krông Năng). Với mô hình này, nông dân sẽ được hướng dẫn quy trình canh tác mới, có ghi nhật ký nông hộ, hợp tác xã sẽ bán sản phẩm với giá tốt nhất cho xã viên…

Vùng tiêu Chư Puh và Chư Sê (Gia Lai) với diện tích 4.000ha cũng đang xúc tiến vận động nông dân trồng tiêu có đất liền kề với nhau “hợp tác” sản xuất theo mô hình trang trại lớn. Ông Hoàng Phước Bính, phó chủ tịch hiệp hội tiêu Chư Sê tha thiết: “Chúng tôi đã nghĩ tới mô hình này từ nhiều năm trước nhưng phải nói thật là nông dân chưa ưng lắm. Hiệp hội đang vận động các doanh nghiệp cùng tham gia với nông dân để thảo luận quy trình canh tác mới, hướng tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ vật tư nông nghiệp… Sản xuất nhỏ lẻ thì không kiểm soát được chất lượng, dịch bệnh”.

MINH PHÚC – HOÀNG BẢY/ SGTT

Kỳ tới: Thay đổi tư duy để định vị lại ngành nông nghiệp

Trước đây, An Giang thực hiện quyết định 80 về liên kết bốn nhà: nhà nước, nhà nông, doanh nghiệp và nhà khoa học nhưng không khả thi. Vì quy trình sản xuất lúa gạo có năm đối tượng tham gia: nông dân, thương lái, nhà máy xay xát, lau bóng và nhà xuất khẩu. Lợi nhuận được chia cho các đối tượng trung gian (thương lái, nhà máy xay xát, lau bóng) rất lớn, chiếm đến 1/2. Lợi nhuận năm 2011 – 2012 là 2.100 đồng/kg, các khâu trung gian đã hưởng 1.100 đồng/kg.

Vụ đông xuân 2011 – 2012, tỉnh mới bàn và thống nhất với công ty cổ phần bảo vệ thực vật An Giang triển khai mô hình cánh đồng mẫu lớn. Mô hình mới chỉ còn nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu, chất lượng hạt gạo được đảm bảo và chi phí sản xuất của nông dân giảm. Nếu mua nợ vật tư từ các đại lý, giá bị cộng thêm từ 20 – 55% nhưng khi có công ty cung ứng, nông dân không bị tính lãi suất mà còn đảm bảo được chất lượng vật tư. Hơn nữa, khi sử dụng giống xác nhận cho năng suất cao hơn giống thuần từ 5 – 10%, thu hoạch bằng máy tỷ lệ thất thoát là 2%, trong khi đó gặt bằng tay tỷ lệ hao hụt khoảng 5%.

Từ mô hình này, nông dân có thu nhập cao, an tâm trong sản xuất, không còn lo lắng vấn đề đầu vào, đầu ra của hạt lúa. Bên cạnh đó, chương trình còn đào tạo, hướng dẫn nông dân tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật trong canh tác, tạo thói quen ghi chép sổ sách để quản lý đồng ruộng, quản lý chi phí đầu tư và tính giá thành sản xuất.

(Huỳnh Thế Năng – phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét