VINAGRI News - 5 tháng đầu năm, Việt Nam XK thủy sản sang 149 thị trường trên thế giới, ước đạt 2,28 tỷ USD, giảm 2,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, tốp 10 thị trường NK lớn nhất gồm Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Trung Quốc, ASEAN, Brazil, Mexico và Nga chiếm trên 84% tổng giá trị XK thủy sản của Việt Nam.
Trong 5 tháng qua, XK thủy sản không ổn định, trong đó giảm mạnh nhất vào tháng 2 (-30%) sau khi tăng trên 34% vào tháng 1 và tiếp tục giảm 17% vào tháng 3. Bước sang tháng 4 và tháng 5, XK bắt đầu có xu hướng hồi phục so với cùng kỳ năm ngoái, mặc dù mức tăng trưởng thấp (2 - 5%). Nhu cầu thị trường thế giới bắt đầu tăng trở lại và nguồn nguyên liệu trong nước (tôm, cá tra, cá ngừ) cũng đang hồi phục.
Bốn nguyên nhân chính khiến XK thủy sản giảm trong 5 tháng đầu năm 2013 là:
1. Nguồn cung nguyên liệu không ổn định
2. Nhu cầu NK tại các thị trường chính sụt giảm do ảnh hưởng suy thoái kinh tế
3. Các rào cản kỹ thuật và thuế quan tại các thị trường NK chủ lực như: thuế chống bán phá giá (CBPG) cá tra POR8, thuế chống trợ cấp (CVD) tôm tại Mỹ, rào cản Ethoxyquin tại Nhật Bản và Hàn Quốc
4. Nhiều DN ngừng hoạt động hoặc thu hẹp quy mô sản xuất do đơn đặt hàng thấp, thiếu vốn, chi phí sản xuất tăng và thiếu chính sách hỗ trợ từ nhà nước.
XK tôm có xu hướng tăng trong 2 tháng 4 và 5 (7 - 9%) do nguồn tôm nguyên liệu đã hồi phục vì vào vụ thu hoạch. Tôm chiếm tỷ trọng cao nhất, 37% với trên 830 triệu USD, tăng khoảng 4% so với cùng kỳ năm ngoái, XK cá tra đứng thứ 2 với tỷ trọng 29%, giá trị 670 triệu USD, giảm gần 7%.
DN nuôi và chế biến cá tra vẫn gặp khó khăn về nguồn vốn, nguồn nguyên liệu không ổn định, nhu cầu thị trường giảm và áp lực rào cản thuế quan.
Khó khăn lớn nhất của XK tôm không còn là tình trạng thiếu hụt nguyên liệu do dịch bệnh mà là áp lực của rào cản thuế CBPG và thuế CVD của Bộ Thương mại Mỹ (DOC). Kết quả sơ bộ thuế CVD mà DOC mới thông báo đã ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý, chiến lược và lợi ích kinh doanh của DN tôm Việt Nam. Ngoài ra, rào cản Ethoxyquin tại Nhật Bản và Hàn Quốc tiếp tục chi phối XK sang 2 thị trường này.
Cá ngừ vốn đang có xu hướng rất khả quan từ năm 2012 với tốc độ tăng trưởng XK trung bình hàng tháng trên 50%, nhưng từ tháng 3 đã có dấu hiệu đi xuống với tỷ lệ giảm 16% và tiếp tục giảm 16% trong tháng 5, dẫn đến tổng XK cá ngừ 5 tháng đầu năm chỉ tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái, ước đạt 251 triệu USD. Nguyên nhân chính là nhu cầu của các thị trường đã bão hòa sau khi tăng quá mạnh trong năm 2011 và đặc biệt là năm 2012. Theo các DN XK cá ngừ, lượng tồn kho sản phẩm này hiện nay tại các nước NK rất lớn, giá cá xuống thấp. Hơn nữa nguồn cung trong nước hiện chủ yếu là sản phẩm cá ngừ đại dương câu tay, chất lượng và giá cả không phù hợp với nhu cầu của các nhà NK trong giai đoạn này.
XK mực, bạch tuộc giảm mạnh nhất, 25% với giá trị đạt 154 triệu USD. Từ năm 2012, mực, bạch tuộc đã phải nhường vị trí thứ 3 cho cá ngừ trong các mặt hàng thủy sản chính XK và sang năm 2013 tiếp tục đà đi xuống.
Các mặt hàng cá biển khác và sản phẩm cá biển như chả cá, surimi cũng sụt giảm theo cá ngừ sau khi tăng mạnh vào năm 2012. XK trong tháng 3 giảm mạnh 28%, tháng 4 hồi phục nhẹ, sang tháng 5 giảm tiếp 10% nên tổng XK 5 tháng giảm gần 4%, đạt 312 triệu USD. Chi phí khai thác tăng, ngư trường khai thác hạn chế và chất lượng sản phẩm sau thu hoạch thấp làm giảm sản lượng chế biến XK các mặt hàng cá biển, trong đó có cá ngừ.
Lê Hằng/ vasep
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét